Thứ Ba, 22 tháng 6, 2010

CẶP PHẠM TRÙ TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN

CẶP PHẠM TRÙ TẤT NHIÊN VÀ NGẪU NHIÊN
Lời mở đầu !
Trong cuộc sống hằng ngày của mỗi người chúng ta, thế giới xung quanh ta luôn vận động và biến đổi không ngừng cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
Ném một hòn đá xuống ao ta biết chắc chắn nó sẽ chìm, không thể nào khác được. Thả một quả trứng gà trong ly nước ta thấy ra sao ? Thông thường thì quả trứng sẽ chìm. Nhưng có người tinh nghịch có thể "phù phép" cho quả trứng nổi bằng việc bỏ thật nhiều muối vào ly nước và khoắng cho tan. Nếu ta vội vã kết luận rằng hễ thả một quả trứng vào trong một ly nước Tất Nhiên quả trứng sẽ chìm thì ta đã lầm lẫn lớn.
Newton nhìn quả táo rơi mà suy ra nguyên lý động lực học: Mọi vật rơi trong chân không đều có cùng một độ gia tốc. Nguyên lý đó rất đúng nếu các vật đem ra thí nghiệm rơi trong chân không. Nếu ta thả những vật đó rơi trong không khí thì dường như nguyên lý đó không còn đúng nữa; sức cản của không khí sẽ làm cho những vật đó rơi với những độ gia tốc khác nhau.
Ngược dòng lịch sử ta thấy đầu tiên xuất hiện xã hội nguyên thủy, tiếp theo là xã hội chiếm hữu nô lệ, rồi đến xã hội phong kiến, xã hội Tư bản chủ nghĩa… đó là điều tất yếu trong lịch sử khi xã hội đã đạt đến trình độ phát triển nhất định.
Vậy, khi ta bắt gặp một sự vật, hay một hiện tượng xảy ra thì cũng có thể do nguyên nhân này, cũng có thể do nguyên nhân khác. Cũng có thể sự việc xảy ra là điều tất nhiên không tránh khỏi nhưng cũng có thể là hoàn toàn ngẫu nhiên.
Trong sự hiểu biết hạn hẹp của mình, nhóm IV xin trình bày về cặp phạm trù Tất nhiên, Ngẫu nhiên. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của giảng viên và các bạn để bài làm thêm phong phú và hoàn chỉnh.





TP.HCM, Ngày 11 tháng 5 năm 2010.

CẶP PHẠM TRÙ TẤT NHIÊN, NGẪU NHIÊN.
- Khái niệm:
+ Tất nhiên (necessity) là cái do những nguyên nhân bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong nguyên nhân điều kiện nhất định phải xảy ra như thế chứ ko thể khác được.
VD: Sự tương tác vào hạt giống trong những điều kiện nhất định thì sẽ nảy mầm, thành cây và sinh hoa kết quả.
VD: Trong điều kiện bình thường, một đứa trẻ bình thường không bị dị tật thì sẽ phát triển theo các giai đoạn như bò, đứng, đi….
VD: Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau....
“Xuân Quỳnh”.
+ Ngẫu nhiên (hazard) là cái không do mối quan hệ bản chất bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp của các hoàn cảnh bên ngoài quyết định do đó nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, xảy ra hoặc không xảy ra, cũng có thể xuất hiện như thế này hoặc xuất hiện như thế khác.
VD: Trong quá trình học tập sinh viên trong ngành điện sẽ trở thành kĩ sư điện nhưng do những điều kiện bên ngoài chi phối làm cho một số người không thể tiếp tục học.
VD: Cũng cùng học khoa Giáo dục Chính trị trường đại học Sài Gòn nhưng do điều kiện, hoàn cảnh và khả năng học tập của mỗi người mà có người ra trường sớm, cũng có người ra trường muộn hơn, cũng có người sau khi ra trường đi dạy và có người sau khi ra trường thì làm trong cơ quan nhà nước….
VD: Đã là nhà tư bản thì tất yếu phải bóc lột sức lao động của công nhân. Điều đó do bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định. Nhưng nhà tư bản tiến hành sản xuất cái gì: ô tô, vải vóc hay vũ khí, chất độc, và bóc lột công nhân như thế nào... thì lại là cái ngẫu nhiên vì nó do những nguyên nhân riêng biệt, do những điều kiện cá nhân không thuộc bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định.
VD: Khi gieo một đồng tiền kim loại thì sẽ xuất hiện một trong hai mặt sấp hoặc ngửa đó là điều tất nhiên. Nhưng việc xuất hiện mặt sấp hay ngửa đó là hoàn toàn ngẫu nhiên….
VD: Sinh, lão, bệnh, tử là “tất nhiên” đối với mỗi người. Song sinh, lão, bệnh, tử vào lúc nào, như thế nào, trong hoàn cảnh nào, lại mang tính “ngẫu nhiên” đối với họ.
VD: Việc sinh sản, qua quá trình giao phối thì sinh ra con trai hay con gái là hoàn toàn ngẫu nhiên. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu người ta thấy rằng nếu hợp tử XX thì sẽ là con gái (hoặc XY là con trai), đây là điều tất nhiên
VD: Gieo hạt ngô xuống đất, hạt ngô sẽ nảy mầm, mọc thành cây và lại do những hạt ngô mới là tất nhiên, nhưng cũng có khi hạt ngô bị chim ăn hoặc bị sâu bệnh phá hoại nên không thể nảy mầm, không thể phát triển thành cây, cho hạt được. Khả năng này do những tác động có tính ngẫu nhiên quy định nên được gọi là ngẫu nhiên.
Trong sự vận động và biến đổi của thế giới vật chất, tính tất nhiên (tất yếu) bảo đảm cho sự thống nhất của tự nhiên , còn tính ngẫu nhiên thì tạo ra sự đa dạng của thế giới đó. Vì vậy, hai tính này luôn có trong mọi sự giải thích khoa học về sự vận động và biến đổi của thế giới vật chất.
Lưu ý
- Cái tất nhiên là cái chung, song không phải mọi cái chung đều là cái tất nhiên.
VD: Trong một đội học sinh đi thi toán quốc tế, các em đều là đoàn viên thanh niên Cộng sản, thì cái chung đoàn viên không phải là cái tất nhiên của đội thi toán mà chỉ là ngẫu nhiên.
VD: Trong một kỳ thi tuyển sinh cao học, tất cả học sinh giỏi đều có nơi sinh cùng một tỉnh là cái chung. Song đây là trường hợp hoàn toàn ngẫu nhiên và cái chung ở đây là cái ngẫu nhiên.
- Chỉ cái chung nào gắn với bản chất của sự vật, mới là hình thức thể hiện của cái tất nhiên.
VD: Thuộc tính biết chế tạo công cụ lao động và có ngôn ngữ là cái chung của con người. Cái chung này đồng thời cũng là cái tất nhiên, vì nó nảy sinh do tác động của bản thân quy luật nội tại của quá trình hình thành con người.
VD: Thuộc tính sống dưới nước, bơi bằng vây, thở bằng mang…. Là những biểu hiện chung của loài cá. Đây cũng là điều tất nhiên nhưng là tất nhiên tương đối.
Vậy, câu hỏi đặt ra là việc xuất hiện ngẫu nhiên hay tất nhiên đó có tuân theo quy luật nào không?
Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tuân theo quy luật:
+ Tất nhiên tuân theo quy luật động lực là quy luật mà trong đó mối quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đơn trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân chỉ có một kết quả xác định.
VD: Một bài toán có nhiều cách giải khác nhau nhưng ứng với nó là một kết quả xác định
VD: Nếu biết tốc độ chuyển động và vị trí của vệ tinh nhân tạo ở thời điểm T1 ta có thể xác định được chính xác tốc độ chuyển động và vị trí của nó ở thời điểm T2….
+ Ngẫu nhiên tuân theo quy luật thống kê là quy luật mà trong đó mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đa trị, tức là ứng với một nguyên nhân có thể là kết quả này cũng có thể là kết quả khác.
VD: Gieo đồng tiền kim loại, mỗi lần gieo đồng tiền sấp hay ngửa là ngẫu nhiên. Song, sau khi nghiên cứu về sự xuất hiện mặt sấp (hoặc ngửa) người ta thấy rằng cái tất nhiên là tổng số mặt sấp (hoặc ngửa) so với tổng số lần gieo là xấp xỉ 1/2. Càng gieo nhiều, tỉ số đó càng tiến gần tới 1/2 (chứ không thể là 2/3 hay 3/4).
VD: Trong một kỳ thi tuyển sinh vào một cơ sở đào tạo, những người đạt loại giỏi đều là những người có nơi sinh cùng một tỉnh. Đây là trường hợp ngẫu nhiên vì cũng có thể sảy ra trường hợp khác, tức là trường hợp các học sinh giỏi đó không cùng sinh một tỉnh….
Friedrich Engels đã khẳng định: “Ở đâu mà sự ngẫu nhiên hình như tác động ở ngoài mặt thì ở đấy, tính ngẫu nhiên ấy luôn luôn bị chi phối bởi những quy luật bị che đậy; và vấn đề chỉ là phát hiện ra những quy luật ấy”.
- Mối liên hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật
VD: Sinh viên phải học tập.
VD: Trong hoàn cảnh bình thường khi gieo hạt thì cây sẽ nảy mầm và phát triển….
+ Ngẫu nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển, làm cho sự phát triển của sự vật nhanh hay chậm.
VD: Trong quá trình học tập sinh viên bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh như: tiền nhà, bạn bè, ý chí học tập… điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề học tập của sinh viên.
VD: Cây xanh phát triển nhanh hay chậm tùy vào chất dinh dưỡng, chăm bón….
VD: Cá tính của lãnh tụ một phong trào là yếu tố ngẫu nhiên, không quyết định đến xu hướng của phong trào, nhưng lại có ảnh hưởng làm cho phong trào phát triển nhanh hoặc chậm, mức độ sâu sắc của phong trào đạt được như thế nào...
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên.
VD: Sự hình thành trái đất là do vụ nổ lớn đó là điều tất nhiên nhưng thông qua vô vàn cái ngẫu nhiên là sự vận động, trao đổi của thế giới tự nhiên. Đồng thời, sự vận động đó là yếu tố cho việc hình thành trái đất…..
VD: Sự phát triển của một cây xanh, khi ta gieo hạt trong điều kiện bình thường thì cây sẽ nảy mầm và phát triển. Nhưng quá trình cây phát triển nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào các yếu tố khác như: nước, không khí, dinh dưỡng….
Ph.Ăngghen nhận xét: Sự xuất hiện các nhân vật xuất sắc trong lịch sử là tất nhiên do nhu cầu xã hội phải giải quyết những nhiệm vụ chín muồi của lịch sử tạo nên. Nhưng nhân vật đó là ai lại không phải cái tất nhiên, vì cái đó không phụ thuộc vào tiến trình chung của lịch sử. Nếu gạt bỏ nhân vật này thì nhân vật khác sẽ xuất hiện thay thế. Người thay thế này có thể tốt hơn hoặc xấu hơn, nhưng cuối cùng nhất định nó phải xuất hiện. Như vậy ở đây cái tất yếu như là khuynh hướng chung của sự phát triển. Khuynh hướng đó không tồn tại thuần tuý, biệt lập, mà được thể hiện dưới hình thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần tuý mà luôn là hình thức thể hiện của cái tất nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất yếu.
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải là tồn tại vĩnh viễn, chúng có thể chuyển hoá cho nhau, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối.
VD: Việc trao đổi vật này lấy vật khác trong xã hội công xã nguyên thuỷ lúc đầu chỉ là việc ngẫu nhiên. Vì khi đó lực lượng sản xuất thấp kém, mỗi công xã chỉ sản xuất đủ cho riêng mình dùng, chưa có sản phẩm dư thừa. Nhưng về sau, nhờ có sự phân công lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích luỹ. Con người đã sản xuất được nhiều sản phẩm hơn, dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó sự trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và biến thành một hiện tượng tất nhiên của xã hội.
VD: Trong hoạt động tâm sinh lý con người, một người bình thường thì khi trưởng thành tâm sinh lý phát triển xuất hiện tình cảm đối với người khác phái (hay còn gọi là tình yêu) đó là điều tất nhiên. Nhưng yêu ai (hoặc thích ai) đó là điều hoàn toàn ngẫu nhiên.
VD: Con người ta ngủ ai cũng đã từng mơ, giấc mơ xuất hiện là điều tất nhiên trong mỗi người bình thường. Nhưng nội dung của giấc mơ là một điều ngẫu nhiên.
- Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên.
+ Muốn nhận thức được cái tất nhiên thì phải thông qua cái ngẫu nhiên. Ta chỉ có thể nhận ra cái tất nhiên bằng việc nghiên cứu rất nhiều cái ngẫu nhiên.
Kết Luận:
Vận dụng vào sự phát triển đất nước ta hiện nay. Trong điều kiện đất nước ta trong giai đoạn hiện nay đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nếu đường lối phát triển, lý luận đúng và mọi người đều cùng nhau bắt tay vào cùng với Đảng và nhà nước góp phần công sức của mình trong công cuộc đó thì chúng ta sẽ xây dựng đất nước phát triển theo hướng tích cực đó là điều tất nhiên. Nhưng trên thực tế, chúng ta còn bắt gặp nhiều những vẫn đề ngẫu nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của đất nước như: quan liêu, tham nhũng, tri thức kém cỏi…. Những mặt hạn chế này tuy là ngẫu nhiên nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến cái tất nhiên, làm kiềm hãm sự phát triển của đất nước.

CHƯƠNG IV: CÁC CẶP PHẠM TRÙ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

Chương 3:
Các cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật
(Hay còn gọi là những quy luật không cơ bản)

1. Một số vấn đề chung về phạm trù
1.1. Định nghĩa phạm trù và phạm trù triết học
Phạm trù là những khái niệm chung, phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ chung cơ bản nhất của các sự vật, hiện tượng nhất định.
VD: Khi nói đến phạm trù “Động vật” thì bao gồm nhiều loại như: heo, trâu, bò, chim, cá…..
Do đối tượng nghiên cứu chi phối, mỗi bộ môn khoa học có một hệ thống phạm trù riêng của mình.
VD: Trong toán học có phạm trù "số", "hình", "điểm", "mặt phẳng", "hàm số",v.v.. Trong vật lý học có các phạm trù "khối lượng", "vận tốc", "gia tốc", "lực",v.v.. Trong kinh tế học có các phạm trù "hàng hoá", "giá trị", "giá cả", "tiền tệ", "lợi nhuận", v.v..
Phạm trù triết học là những khái niệm chung nhất phản ánh những mặt, những thuộc tính, những mối liên hệ cơ bản, phổ biến nhất không của riêng một lĩnh vực, hiện thực nào, mà phản ánh của toàn bộ thế giới hiện thực nói chung bao gồm cả tự nhiên, xã hội, tư duy.
VD: Bất cứ sư vật hiện tượng nào (sinh học, kinh tế học….) đều có nguyên nhân xuất hiện, đều ở trong trạng thái vận động, phát triển, thống nhất chung và riêng…..
VD: "vật chất", "ý thức", "vận động", "đứng im", "mâu thuẫn", "số lượng", "chất lượng", "nguyên nhân", "kết quả", v.v..
Giữa phạm trù của triết học và phạm trù của các khoa học cụ thể có mối quan hệ biện chứng với nhau. Đó là quan hệ giữa cái chung và cái riêng.
Các trường phái triết học khác nhau đã giải thích vấn đề bản chất của phạm trù theo những cách khác nhau:
Phái duy thực: coi phạm trù là những bản chất ý niệm , tồn tại ở bên ngoài và độc lập với ý niệm ở loài người.
Phái duy danh: Coi phạm trù chỉ là những từ trống rỗng, không biểu hiện một cái gì cả.
Theo Kant và những người thuộc phái của ông: coi phạm trù không phải là sự phản ánh nào đó của hiện thực, mà là nhữn hình thức nhận biết tồn tại vốn có sẵn của tư duy con người, có trước mọi kinh nghiệm và không phụ thuộc vào kinh nghiệm, được lý trí con người đưa vào giới tự nhiên.
Chủ nghĩa DVBC cho rằng: các phạm trù được hình thành trong quá trình hoạt động nhận thức và thực tiễn.
Lênin cho rằng: các phạm trù là những bậc thang của quá trình nhận thức.
Con đường hình thành các phạm trù:
- Các phạm trù được hình thành bằng con đường khái quát hoá, trừu tượng hóa những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có bên trong của bản thân sự vật. Vì vậy nội dung của nó mang tính khách quan, bị thế giới khách quan quy định, mặc dù hình thức thể hiện của nó là chủ quan. V.I.Lênin viết: "Những khái niệm của con người là chủ quan trong tính trừu tượng của chúng, trong sự tách rời của chúng, nhưng là khách quan trong chỉnh thể, trong quá trình, trong kết cuộc, trong khuynh hướng, trong nguồn gốc".
VD: Khi nói đến cây lúa người ta biết nó có thân mềm, lá dài, rễ chùm….. Thực vật gồm: lúa, ổi, soài, cóc…. Động vật gồm: gà, heo, trâu, bò…. Thực vật và động vật nói chung gọi là sinh vật có sự sống (Hữu cơ). Thế giới hữu cơ và vô cơ còn có tên gọi chung là Vật chất.
Vậy, Phạm trù triết học được hiểu theo nghĩa chung nhất ở thế giới vật chất theo nghĩa triết học.
Bất kỳ sự vật nào thì quan trọng nhất vẫn là nội dung tri thức mà con người gởi gắm vào nó. Là yếu tố quan trong nhất để quyết định sự vật chứ không phải là vẻ bề ngoài của nó.
Phạm trù triết học đi với nhau thành từng cặp một. Ta cùng tìm hiểu từng cặp phạm trù:

NGUYÊN NHÂN VÀ KẾT QUẢ

1) Khái niệm:
Phạm trù nguyên nhân và kết quả phản ánh mối quan hệ sản sinh ra nhau giữa các sự vật, hiện tượng trong hiện thực khách quan.
- Nguyên nhân là phạm trù chỉ sự tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sự vật với nhau, gây ra một biến đổi nhất định nào đó.
VD: Sự tương tác giữa mặt trời và trái đất là nguyên nhân dẫn đến sự biến đổi quả đất
VD: Sự tương tác giữa dòng điện với dây dẫn là nguyên nhân làm cho bòng đén phát sáng.
- Kết quả là những biến đổi xuất hiện do tác động lẫn nhau giữa các mặt trong một sự vật hoặc giữa các sư vật với nhau gây ra.
VD: Thời tiết nóng bức trong những ngày này sẽ dẫn đến kết quả là dễ gây ra bệnh cho con người.
VD: Gieo gió gặp bão; có công mài sặt có ngày nên kim; ở hiền gặp lành…
VD: Cuộc đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản là nguyên nhân đưa đến kết quả là cuộc cách mạng vô sản nổ ra
Tính chất của mối liên hệ nhân quả
Phép biện chứng duy vật khẳng định mối liên hệ nhân quả có tính khách quan, tính phổ biến, tính tất yếu.
Tính khách quan: mối liên hệ nhân quả là cái vốn có của bản thân sự vật, không phụ thuộc vào ý thức của con người. Dù con người biết hay không biết, thì các sự vật vẫn tác động lẫn nhau và sự tác động đó tất yếu gây nên biến đổi nhất định.
VD: Sinh viên mà không chịu học bài sẽ dẫn đến kết quả học tập kém….
Theo Hêghen: “Cái gì hữu lý thì tồn tại thực sự và cái gì tồn tại thực sự đều là những cái hữu lý”
Engels nhấn mạnh: “Hoạt động của con người là hòn đá thử vàng của tính nhân quả”
Tính phổ biến: mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, trong xã hội và cả trong tư duy con người đều có nguyên nhân nhất định gây ra. Không có hiện tượng nào không có nguyên nhân, chỉ có điều là nguyên nhân đó đã được nhận thức hay chưa mà thôi. Không nên đồng nhất vấn đề nhận thức của con người về mối liên hệ nhân quả với vấn đề tồn tại của mối liên hệ đó trong hiện thực.
VD: Nước chảy đá mòn;
VD: Sự phát triển công nghiệp bừa bãi sẽ dẫn đến ô nhiễm môi trường, ô nhiễm nguồn nước….
Tính tất yếu: cùng một nguyên nhân nhất định, trong những điều kiện giống nhau sẽ gây ra kết quả như nhau.
VD: Nước ở áp xuất 1 Átmốtphe luôn luôn sô ở 100 độ C…
VD: Gieo hạt thóc xuống đất sẽ cho ra cây lúa chứ không phải ngô hay khoai…
Tuy nhiên trong thực tế không thể có sự vật nào tồn tại trong những điều kiện, hoàn cảnh hoàn toàn giống nhau. Do vậy tính tất yếu của mối liên hệ nhân quả trên thực tế phải được hiểu là: Nguyên nhân tác động trong những điều kiện và hoàn cảnh càng ít khác nhau bao nhiêu thì kết quả do chúng gây ra càng giống nhau bấy nhiêu.
2. Quan hệ biện chứng giữa nguyên nhân và kết quả
- Nguyên nhân luôn luôn có trước kết quả, còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện và bắt đầu tác động.
VD: Phản ứng Hidro tác động Ôxi sinh ra nước…..
VD: Lao động là nguyên nhân và con người là kết quả
VD: Sự vận động vũ trụ sinh ra vụ nổ lớn, sinh ra trạng thái hiện tại của vũ trụ đó là quá trình của nhiều tỉ năm.
VD: Sự đua đòi vật chất dẫn đến suy đồi về đạo đức….
Tuy nhiên không phải hai hiện tượng nào nối tiếp nhau về mặt thời gian cũng là quan hệ nhân quả.
VD: Ngày kế tiếp đêm, mùa hè kế tiếp mùa xuân, sấm kế tiếp chớp,v.v,
- Mối quan hệ nhân quả chỉ có thể thực hiện trong những điều kiện ràng buộc nhất định chứ không phải trong mọi điều kiện
VD: Nước sô ở nhiệt độ 100 độ C nhưng có nơi đặc biệt nó sẽ sôi ở nhiệt độ 83 độ C
Điều đó cho thấy: nguyên nhân giống, hoàn cảnh giống thì kết quả giống. Nguyên nhân giống, điều kiện khác thì kết quả khác.
Cần phân biệt nguyên nhân với nguyên cớ.
Nguyên nhân quyết định sinh ra kết quả
Nguyên cớ không sinh ra kết quả (mặc dù nó xuất hiện cùng với nguyên nhân) nhưng nó có mối liên hệ nhân quả, đó là mối liên hệ không bản chất, mối liên hệ hời hợt…. Nguyên cớ là lý lẽ của những kẻ ngụy biện. Đôi khi nguyên cớ cũng là lý do cho nhiều sự kiện lịch sử lớn lao.
VD: Cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc, Mỹ đã đã sử dụng chiến hạm để tạo nguyên cớ đánh bom miền Bắc nước ta.
VD: Trong chiến tranh Irac, Mỹ cho rằng Irac có vũ khí hủy diệt để tạo cớ đánh để khống chế rốn dầu thế giới….
- Một kết quả không phải do một nguyên nhân gây ra mà do nhiều nguyên nhân, nhiều mối liên hệ phức tạp gây ra. Đồng thời một nguyên nhân cũng có thể sinh ra không phải một mà nhiều kết quả khác nhau. Xét về mặt bản chất đó là mối quan hệ phức tạp.
VD: Cuộc kháng chiến chống Mỹ thành công do nhiều nguyên nhân như: truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc, đường lối chiến tranh nhân dân, Tinh thần kỷ luật, chiến đấu, có sự viện trợ, ủng hộ củ nước ngoài….
VD: Trả lời câu hỏi vì sao nước ta còn nghèo và lạc hậu? ta thấy có nhiều nguyên nhân như: nguyên nhân chủ quan do chiến tranh; nguyên nhân khách quan do sự kém cỏi trong đường lối lãnh đạo, “sự hẵng hụt về trí tuệ và thể chất”, tham nhũng…..
VD: Mất mùa có thể do hạn hán, có thể do lũ lụt, có thể do sâu bệnh, có thể do chăm bón không đúng kỹ thuật, v.v..
VD: Chặt phá rừng có thể gây ra nhiều hậu quả như: lũ lụt, hạn hán,, thay đổi khí hậu, tiêu diệt một số loài sinh vật….
VD: Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng
VD: Bần cùng sinh đạo tặc
- Trong hiện thực khách quan, nguyên nhân và kết quả là một chuỗi vô tận nhân quả. Không có nguyên nhân đầu và cuối, nguyên nhân và kết quả luôn đổi vị trí cho nhau. Kết quả của hiện tượng trước là nguyên nhân của hiện tượng sau.
VD: -> Phản ứng phân hạch -> ánh sáng mặt trời -> quang hợp của cây xanh -> tạo nên chất diệp lục trong là cây -> tạo chất hữu cơ cho cây ->….
- Trong điều kiện nhất định, nguyên nhân và kết quả chuyễn hóa cho nhau
VD: -> Con gà -> quả trứng -> con gà -> quả trứng ->….
Ph.Ăngghen nhận xét rằng: Nguyên nhân và kết quả là những khái niệm chỉ có ý nghĩa là nguyên nhân và kết quả khi được áp dụng vào một trường hợp riêng biệt nhất định.
3) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Không có sự vật, hiện tượng nào trong thế giới vật chất lại không có nguyên nhân. Muốn tìm nguyên nhân phải tìm trong thế giới hiện thực, trong bản thân các sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới vật chất.
- Vì nguyên nhân luôn có trước kết quả nên muốn tìm nguyên nhân của một hiện tượng nào đấy cần tìm trong những sự kiện những mối liên hệ xảy ra trước khi hiện tượng đó xuất hiện.
- Vì mối liên hệ nhân quả phức tạp nên phải thận trọng xác định đúng nguyên nhân đẫn đến kết quả.
- Phải thấy tính dây truyền trong mối liên hệ nhân quả.
- Phải nhớ nguyên nhân chủ yếu, bên trong mới là các quy định sinh ra kết quả.
- Trong hoạt động thực tiễn chúng ta cần phải khai thác, tận dụng các kết quả đã đạt được để tạo điều kiện thúc đẩy nguyên nhân phát huy tác dụng, nhằm đạt mục đích.

CẶP PHẠM TRÙ TẤT NHIÊN, NGẪU NHIÊN.
1) Khái niệm:
+ Tất nhiên (necessity) là cái do những nguyên nhân bên trong của kết cấu vật chất quyết định và trong nguyên nhân điều kiện nhất định phải xảy ra như thế chứ ko thể khác được.
VD: Sự tương tác vào hạt giống trong những điều kiện nhất định thì sẽ nảy mầm, thành cây và sinh hoa kết quả.
VD: Trong điều kiện bình thường, một đứa trẻ bình thường không bị dị tật thì sẽ phát triển theo các giai đoạn như bò, đứng, đi….
VD: Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau....
“Xuân Quỳnh”.
+ Ngẫu nhiên (hazard) là cái không do mối quan hệ bản chất bên trong sự vật quyết định mà do các nhân tố bên ngoài, do sự ngẫu hợp của các hoàn cảnh bên ngoài quyết định do đó nó có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện, xảy ra hoặc không xảy ra, cũng có thể xuất hiện như thế này hoặc xuất hiện như thế khác.
VD: Trong quá trình học tập sinh viên trong ngành điện sẽ trở thành kĩ sư điện nhưng do những điều kiện bên ngoài chi phối làm cho một số người không thể tiếp tục học.
VD: Cũng cùng học khoa Giáo dục Chính trị trường đại học Sài Gòn nhưng do điều kiện, hoàn cảnh và khả năng học tập của mỗi người mà có người ra trường sớm, cũng có người ra trường muộn hơn, cũng có người sau khi ra trường đi dạy và có người sau khi ra trường thì làm trong cơ quan nhà nước….
VD: Đã là nhà tư bản thì tất yếu phải bóc lột sức lao động của công nhân. Điều đó do bản chất quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định. Nhưng nhà tư bản tiến hành sản xuất cái gì: ô tô, vải vóc hay vũ khí, chất độc, và bóc lột công nhân như thế nào... thì lại là cái ngẫu nhiên vì nó do những nguyên nhân riêng biệt, do những điều kiện cá nhân không thuộc bản chất của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa quyết định.
VD: Khi gieo một đồng tiền kim loại thì sẽ xuất hiện một trong hai mặt sấp hoặc ngửa đó là điều tất nhiên. Nhưng việc xuất hiện mặt sấp hay ngửa đó là hoàn toàn ngẫu nhiên….
VD: Sinh, lão, bệnh, tử là “tất nhiên” đối với mỗi người. Song sinh, lão, bệnh, tử vào lúc nào, như thế nào, trong hoàn cảnh nào, lại mang tính “ngẫu nhiên” đối với họ.
VD: Việc sinh sản, qua quá trình giao phối thì sinh ra con trai hay con gái là hoàn toàn ngẫu nhiên. Tuy nhiên, qua quá trình nghiên cứu người ta thấy rằng nếu hợp tử XX thì sẽ là con gái (hoặc XY là con trai), đây là điều tất nhiên
VD: Gieo hạt ngô xuống đất, hạt ngô sẽ nảy mầm, mọc thành cây và lại do những hạt ngô mới là tất nhiên, nhưng cũng có khi hạt ngô bị chim ăn hoặc bị sâu bệnh phá hoại nên không thể nảy mầm, không thể phát triển thành cây, cho hạt được. Khả năng này do những tác động có tính ngẫu nhiên quy định nên được gọi là ngẫu nhiên.
Trong sự vận động và biến đổi của thế giới vật chất, tính tất nhiên (tất yếu) bảo đảm cho sự thống nhất của tự nhiên , còn tính ngẫu nhiên thì tạo ra sự đa dạng của thế giới đó. Vì vậy, hai tính này luôn có trong mọi sự giải thích khoa học về sự vận động và biến đổi của thế giới vật chất.
Lưu ý
- Cái tất nhiên là cái chung, song không phải mọi cái chung đều là cái tất nhiên.
VD: Trong một đội học sinh đi thi toán quốc tế, các em đều là đoàn viên thanh niên Cộng sản, thì cái chung đoàn viên không phải là cái tất nhiên của đội thi toán mà chỉ là ngẫu nhiên.
VD: Trong một kỳ thi tuyển sinh cao học, tất cả học sinh giỏi đều có nơi sinh cùng một tỉnh là cái chung. Song đây là trường hợp hoàn toàn ngẫu nhiên và cái chung ở đây là cái ngẫu nhiên.
- Chỉ cái chung nào gắn với bản chất của sự vật, mới là hình thức thể hiện của cái tất nhiên.
VD: Thuộc tính biết chế tạo công cụ lao động và có ngôn ngữ là cái chung của con người. Cái chung này đồng thời cũng là cái tất nhiên, vì nó nảy sinh do tác động của bản thân quy luật nội tại của quá trình hình thành con người.
VD: Thuộc tính sống dưới nước, bơi bằng vây, thở bằng mang…. Là những biểu hiện chung của loài cá. Đây cũng là điều tất nhiên nhưng là tất nhiên tương đối.
Vậy, câu hỏi đặt ra là việc xuất hiện ngẫu nhiên hay tất nhiên đó có tuân theo quy luật nào không?
Cả tất nhiên và ngẫu nhiên đều tuân theo quy luật:
+ Tất nhiên tuân theo quy luật động lực là quy luật mà trong đó mối quan hệ qua lại giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đơn trị, nghĩa là ứng với một nguyên nhân chỉ có một kết quả xác định.
VD: Một bài toán có nhiều cách giải khác nhau nhưng ứng với nó là một kết quả xác định
VD: Nếu biết tốc độ chuyển động và vị trí của vệ tinh nhân tạo ở thời điểm T1 ta có thể xác định được chính xác tốc độ chuyển động và vị trí của nó ở thời điểm T2….
+ Ngẫu nhiên tuân theo quy luật thống kê là quy luật mà trong đó mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả là mối quan hệ đa trị, tức là ứng với một nguyên nhân có thể là kết quả này cũng có thể là kết quả khác.
VD: Gieo đồng tiền kim loại, mỗi lần gieo đồng tiền sấp hay ngửa là ngẫu nhiên. Song, sau khi nghiên cứu về sự xuất hiện mặt sấp (hoặc ngửa) người ta thấy rằng cái tất nhiên là tổng số mặt sấp (hoặc ngửa) so với tổng số lần gieo là xấp xỉ 1/2. Càng gieo nhiều, tỉ số đó càng tiến gần tới 1/2 (chứ không thể là 2/3 hay 3/4).
VD: Trong một kỳ thi tuyển sinh vào một cơ sở đào tạo, những người đạt loại giỏi đều là những người có nơi sinh cùng một tỉnh. Đây là trường hợp ngẫu nhiên vì cũng có thể sảy ra trường hợp khác, tức là trường hợp các học sinh giỏi đó không cùng sinh một tỉnh….
Friedrich Engels đã khẳng định: “Ở đâu mà sự ngẫu nhiên hình như tác động ở ngoài mặt thì ở đấy, tính ngẫu nhiên ấy luôn luôn bị chi phối bởi những quy luật bị che đậy; và vấn đề chỉ là phát hiện ra những quy luật ấy”.
2) Mối liên hệ biện chứng giữa tất nhiên và ngẫu nhiên
+ Tất nhiên có tác dụng chi phối sự phát triển của sự vật
VD: Sinh viên phải học tập.
VD: Trong hoàn cảnh bình thường khi gieo hạt thì cây sẽ nảy mầm và phát triển….
+ Ngẫu nhiên ảnh hưởng đến sự phát triển, làm cho sự phát triển của sự vật nhanh hay chậm.
VD: Trong quá trình học tập sinh viên bị chi phối bởi nhiều hoàn cảnh như: tiền nhà, bạn bè, ý chí học tập… điều đó ảnh hưởng không nhỏ đến vấn đề học tập của sinh viên.
VD: Cây xanh phát triển nhanh hay chậm tùy vào chất dinh dưỡng, chăm bón….
VD: Cá tính của lãnh tụ một phong trào là yếu tố ngẫu nhiên, không quyết định đến xu hướng của phong trào, nhưng lại có ảnh hưởng làm cho phong trào phát triển nhanh hoặc chậm, mức độ sâu sắc của phong trào đạt được như thế nào...
+ Cái tất nhiên bao giờ cũng thể hiện sự tồn tại của mình thông qua vô vàn cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên là hình thức biểu hiện của cái tất nhiên đồng thời bổ sung cho cái tất nhiên.
VD: Sự hình thành trái đất là do vụ nổ lớn đó là điều tất nhiên nhưng thông qua vô vàn cái ngẫu nhiên là sự vận động, trao đổi của thế giới tự nhiên. Đồng thời, sự vận động đó là yếu tố cho việc hình thành trái đất…..
VD: Sự phát triển của một cây xanh, khi ta gieo hạt trong điều kiện bình thường thì cây sẽ nảy mầm và phát triển. Nhưng quá trình cây phát triển nhanh hay chậm còn tùy thuộc vào các yếu tố khác như: nước, không khí, dinh dưỡng….
Ph.Ăngghen nhận xét: Sự xuất hiện các nhân vật xuất sắc trong lịch sử là tất nhiên do nhu cầu xã hội phải giải quyết những nhiệm vụ chín muồi của lịch sử tạo nên. Nhưng nhân vật đó là ai lại không phải cái tất nhiên, vì cái đó không phụ thuộc vào tiến trình chung của lịch sử. Nếu gạt bỏ nhân vật này thì nhân vật khác sẽ xuất hiện thay thế. Người thay thế này có thể tốt hơn hoặc xấu hơn, nhưng cuối cùng nhất định nó phải xuất hiện. Như vậy ở đây cái tất yếu như là khuynh hướng chung của sự phát triển. Khuynh hướng đó không tồn tại thuần tuý, biệt lập, mà được thể hiện dưới hình thức cái ngẫu nhiên. Cái ngẫu nhiên cũng không tồn tại thuần tuý mà luôn là hình thức thể hiện của cái tất nhiên. Trong cái ngẫu nhiên ẩn giấu cái tất yếu.
+ Tất nhiên và ngẫu nhiên không phải là tồn tại vĩnh viễn, chúng có thể chuyển hoá cho nhau, ranh giới giữa tất nhiên và ngẫu nhiên chỉ có ý nghĩa tương đối.
VD: Việc trao đổi vật này lấy vật khác trong xã hội công xã nguyên thuỷ lúc đầu chỉ là việc ngẫu nhiên. Vì khi đó lực lượng sản xuất thấp kém, mỗi công xã chỉ sản xuất đủ cho riêng mình dùng, chưa có sản phẩm dư thừa. Nhưng về sau, nhờ có sự phân công lao động, kinh nghiệm sản xuất của con người cũng được tích luỹ. Con người đã sản xuất được nhiều sản phẩm hơn, dẫn đến có sản phẩm dư thừa. Khi đó sự trao đổi sản phẩm trở nên thường xuyên hơn và biến thành một hiện tượng tất nhiên của xã hội.
VD: Trong hoạt động tâm sinh lý con người, một người bình thường thì khi trưởng thành tâm sinh lý phát triển xuất hiện tình cảm đối với người khác phái (hay còn gọi là tình yêu) đó là điều tất nhiên. Nhưng yêu ai (hoặc thích ai) đó là điều hoàn toàn ngẫu nhiên.
VD: Con người ta ngủ ai cũng đã từng mơ, giấc mơ xuất hiện là điều tất nhiên trong mỗi người bình thường. Nhưng nội dung của giấc mơ là một điều ngẫu nhiên.
3) Ý nghĩa phương pháp luận:
+ Trong hoạt động thực tiễn phải dựa vào cái tất nhiên nhưng cũng không được bỏ qua hoàn toàn cái ngẫu nhiên.
+ Muốn nhận thức được cái tất nhiên thì phải thông qua cái ngẫu nhiên. Ta chỉ có thể nhận ra cái tất nhiên bằng việc nghiên cứu rất nhiều cái ngẫu nhiên.
Kết Luận:
Vận dụng vào sự phát triển đất nước ta hiện nay. Trong điều kiện đất nước ta trong giai đoạn hiện nay đang phấn đấu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nếu đường lối phát triển, lý luận đúng và mọi người đều cùng nhau bắt tay vào cùng với Đảng và nhà nước góp phần công sức của mình trong công cuộc đó thì chúng ta sẽ xây dựng đất nước phát triển theo hướng tích cực đó là điều tất nhiên. Nhưng trên thực tế, chúng ta còn bắt gặp nhiều những vẫn đề ngẫu nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của đất nước như: quan liêu, tham nhũng, tri thức kém cỏi…. Những mặt hạn chế này tuy là ngẫu nhiên nhưng nó ảnh hưởng rất lớn đến cái tất nhiên, làm kiềm hãm sự phát triển của đất nước.

BẢN CHẤT VÀ HIỆN TƯỢNG
1) Khái niệm:
- Bản chất là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những mối liên hệ tất nhiên, tương đối ổn định bên trong sự vật, quy định sự vận động và phát triển của sự vật.
VD: Bản chất của TBCN là bóc lột giá trị thặng dư….
- Hiện tượng là phạm trù dùng để chỉ những mặt, những mối liên hệ biểu hiện ra bên ngoài của một bản chất nhất định.
VD: Bản chất một nguyên tố hóa học là mối liên hệ giữa điện tử và hạt nhân, còn những tính chất hóa học của nguyên tố đó khi tương tác với các nguyên tố khác là hiện tượng thể hiện ra bên ngoài của mối liên kết giữa điện tử và hạt nhân.
VD: Màu sắc, mùi vị…. của một bông hoa…
VD: Bản chất của CNTB là bóc lột giá trị thặng dư. Nhưng hiện tượng của quan hệ này ra ngoài xã hội là quan hệ bình đẳng, hai bên được tự do thỏa thuận với nhau.
Marx khẳng định: “Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ”.
Lưu ý:
- Phạm trù bản chất gắn liền với phạm trù cái chung, nhưng không đồng nhất với cái chung. Có cái chung là bản chất, nhưng có cái chung không phải là bản chất.
VD: Mọi người đều là sản phẩm tổng hợp của các quan hệ xã hội, đó là cái chung, đồng thời đó là bản chất của con người. Còn những đặc điểm về cấu trúc sinh học của con người như đều có đầu, mình và các chi... đó là cái chung, nhưng không phải bản chất của con người.
- Phạm trù bản chất và phạm trù quy luật là cùng loại, hay cùng một bậc (xét về mức độ nhận thức của con người) nhưng không đồng nhất với nhau. Mỗi quy luật thường chỉ biểu hiện một mặt, một khía cạnh nhất định của bản chất còn bản chất là tổng hợp của nhiều quy luật. Vì vậy phạm trù bản chất rộng hơn và phong phú hơn quy luật.
2) Mối quan hệ biện chứng của bản chất và hiện tượng:
- Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng. Sự thống nhất đó thể hiện trước hết ở chỗ bản chất bao giờ cũng bộc lộ ra hiện tượng, còn hiện tượng bao giờ cũng là sự biều hiện của bản chất.
Lênin viết: “Bản chất hiện ra. Hiên tượng là có tính bản chất”.
VD: Bản chất của thế giới hữu cơ là sự trao đổi chất; Những hiện tượng đồng hóa, dị hóa…. Là hiện tượng của bản chất.
VD: Một nền cộng hòa đúng nghĩa thì bản chất là tự do, hiện tượng của tự do thể hiện qua luật pháp như: tự do cư trú, tự do sinh sống, làm ăn….
- Bản chất nào thì hiện tượng ấy, bản chất khác nhau sẽ bộc lộ ở những hiện tượng khác nhau. Bản chất thay đổi thì hiện tượng biểu hiện nó cũng thay đổi theo. Hiện tượng bao giờ cũng nói lên bản chất, phản ánh bản chất. Nhưng có thể có hiện tượng nói lên đúng bản chất, có hiện tượng chỉ nói lên một mặt, thậm chí có hiện tượng xuyên tạc bản chất nhưng có chung bản chất, đều là bản chất.
VD: Bản chất của NaCl là ion Na+ và Cl-. Nếu ta thay đổi bản chất của nó, tức cho thêm dung dich NaOH thì khi cho quì tím vào sẽ xảy ra hiện tượng quì tím chuyển xanh, nghĩa là đã có sự thay đổi hiện tượng khi bản chất thay đổi.
VD: Bản chất của gió là sự chuyển động của không khí, không khí luôn luôn chuyển động từ nơi khí áp cao về nơi khí áp thấp. Sự chuyển động của không khí gây nên hiện tượng gió. Khi không có sự chuyển động trên thì không có gió.
VD: Bản chất của giai cấp tư sản của chế độ tư bản chủ nghĩa là bóc lột giá trị thặng dư. Bản chất này được bộc lộ ra ở nhiều hiện tượng trong chủ nghĩa tư bản như bần cùng hóa giai cấp vô sản, thất nghiệp, khủng hoảng kinh tế theo chu kỳ, ô nhiễm môi trường, chiến tranh. Khi không còn giai cấp tư sản, không còn chế độ bóc lột giá trị thặng dư nữa thì những hiện tượng trên cũng sẽ mất theo, con người sẽ làm chủ thực sự được tự nhiên, xã hội và bản thân mình.
VD: Người sống trung thực thì nói thẳng, nói thật, dám chịu trách nhiệm trước lời nói của mình
VD: Trông mặt mà bắt hình dong
VD: Nước mắt cá xấu
VD: Trong kinh doanh, cung nhiều hơn cầu thì hàng hóa sẽ rẻ….
- Sự thống nhất giữa bản chất và hiện tượng là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập. Do vậy, không phải bản chất và hiện tượng phù hợp nhau hoàn toàn mà luôn bao hàm cả sự mâu thuẫn nhau. Mâu thuẫn này thể hiện ở chỗ:
+ Bản chất là mặt bên trong của hiện thực khách quan còn hiện tượng là mặt bên ngoài của hiện thực khách quan.
VD: Bản chất tâm lý người là nhân cách. Nhân cách được thể hiện ra bên ngoài quan hệ xã hội bằng cử chỉ, hành động, cách nói, phong cách…..
Karl Marx nhận xét: “Nếu bản chất và hiện tượng của sự vật trực tiếp đồng nhất với nhau, thì mọi khoa học sẽ trở nên thừa”.
+ Bản chất là cái tương đối ổn định, biến đổi chậm còn hiện tượng không ổn định, biến đổi nhanh.
VD: Nói về bản tính con người, người Trung Quốc có câu: “Giang sơn dị cải, bản tính nan di”.
Lênin viết: “Cái không bản chất, cái bề ngoài, cái trên mặt, thường biến mất, không bám “chắc”, không “ngồi vững” bằng “bản chất”. Sự vận động của một con sông – bọt ở bên trên và luồng nước sâu ở dưới. Nhưng bọt cũng là biểu hiện của bản chất!”
- Hiện tượng phong phú hơn bản chất còn bản chất thì sâu sắc hơn hiện tượng.
VD: Bản chất của giai cấp tư sản là bóc lột giá trị thặng dư, bản chất đó được thể hiện ở rất nhiều thủ đoạn của giai cấp tư sản như tích cực áp dụng khoa học kỹ thuật, đổi mới công nghệ, đổi mới phương pháp quản lý, thậm chí tăng lương và cải thiện điều kiện sống, điều kiện làm việc cho công nhân... để nhằm mục đích nâng cao giá trị thặng dư cho giai cấp tư sản, cho nên nếu không tìm hiểu kỹ sẽ không thấy được bản chất thật sự của giai cấp tư sản mà chỉ thấy những biểu hiện bề ngoài của nó, không có được sự đánh giá toàn diện đúng đắn về giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
3) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Buộc chúng ta phải tìm bản chất ngay trong chính sự vật, thông qua hiện tượng để xác định bản chất. Muốn nhận thức đúng sự vật, hiện tượng thì không dừng lại ở hiện tượng bên ngoài mà phải đi vào bản chất. Phải thông qua nhiều hiện tượng khác nhau mới nhận thức đúng bản chất.
VD: Để nhận thức bản chất của ánh sáng trắng, người ta phải căn cứ qua nhiều thí nghiệm như: cho ánh sáng trắng đi qua lăng kính ta thu được dải màu như cầu vòng từ đỏ đến tím và ngược lại cho quang phổ đi qua thấu kính hội tụ ta thu được ánh sáng trắng. Từ đó kết luận, bản chất ánh sáng trắng là tổng hợp của ánh sáng đơn sắc.
- Chú ý tính đa dạng trong bản chất và hiện tượng. Bản chất phản ánh tính tất yếu, tính qui luật nên trong nhận thức và thực tiễn cần căn cứ vào bản chất chứ không căn cứ vào hiện tượng thì mới đánh giá chính xác sự vật hiện tượng đó, mới có thể cải tạo căn bản sự vật.
VD: Khi quan sát, nghiên cứu nhiều hiện tượng phát triển của cây lúa, người ta nhận biết được bản chất, qui luật của nó. Từ đó, cải tạo giống lúa cho năng suất cao
- Bất kỳ hiện tượng nào cũng chứa bản chất. Bất kỳ bản chất nào cũng thông qua hiện tượng để thể hiện tính khách quan của mình.
Lênin viết rằng: "Tư tưởng của người ta đi sâu một cách vô hạn, từ hiện tượng đến bản chất, từ bản chất cấp một, nếu có thể nói như vậy, đến bản chất cấp hai, v.v.. cứ như thế mãi"


CÁI RIÊNG, CÁI CHUNG VÀ CÁI ĐƠN NHẤT

1) Khái niệm:
- Cái riêng (Particularity) là phạm trù triết học dùng để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định.
VD: Hà Nội, sông Cửu Long, Nguyễn văn A, thời tiết ngày hôm nay, quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là những cái riêng.
Engels viết: “Thế giới không phải là một tập hợp những sự vật nhất thành bất biến, mà là tập hợp của những quá trình”.
- Cái chung (Universality) là phạm trù triết học dùng để chỉ những thuộc tính chung không những có ở một kết cấu vật chất nhất định, mà còn được lặp lại trong nhiều sự vật, hiện tượng hay quá trình riêng lẻ khác.
VD: Qúa trình đồng hóa dị hóa là đặc điểm chung của thực vật…..
- Cái đơn nhất (Singularity) là phạm trù để chỉ những nét, những mặt, những thuộc tính... chỉ có ở một sự vật, một kết cấu vật chất nhất định, không lặp lại ở sự vật, hiện tượng, kết cấu vật chất khác.
VD: Đường chỉ tay của mỗi người.
VD: Bức ảnh nàng Mona Lisa của Leonardo Da Vinci thời phục hưng.
VD: Thủ đô Hà Nội là một "cái riêng", ngoài các đặc điểm chung giống các thành phố khác của Việt Nam, còn có những nét riêng như phố cổ, có Hồ Gươm, có những nét văn hóa truyền thống mà chỉ có ở Hà Nội mới có, đó là cái đơn nhất.
Lưu ý:
Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất đều tồn tại khách quan (không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người).
2. Quan hệ biện chứng giữa "cái riêng", "cái chung" và "cái đơn nhất":
- Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Nghĩa là không có cái chung thuần túy tồn tại bên ngoài cái riêng.
VD: Qúa trình đồng hóa, dị hóa để duy trì sự sống là cái chung của cây cam, cây quýt, ổi ….. và nhiều loại khác.
- Cái riêng chỉ tồn tại trong mối liên hệ với cái chung. Nghĩa là không có cái riêng nào tồn tại tuyệt đối độc lập, không có liên hệ với cái chung.
VD của Lênin: “Ivan là người, Ivan là “cái riêng”, người là “cái chung”
VD: Mỗi con người là một cái riêng, nhưng mỗi con người không thể tồn tại ngoài mối liên hệ với xã hội và tự nhiên. Không cá nhân nào không chịu sự tác động của các quy luật sinh học và các quy luật xã hội. Đó là những cái chung trong mỗi con người.
- Cái riêng là cái toàn bộ, phong phú hơn cái chung; cái chung là cái bộ phận, nhưng sâu sắc hơn cái riêng. Cái riêng phong phú hơn cái chung vì ngoài những đặc điểm chung, cái riêng còn có cái đơn nhất. Cái chung là cái gắn liền với cái bản chất, quy định phương hướng tồn tại và phát triển của cái riêng.
VD: Người nông dân Việt Nam bên cạnh cái chung với nông dân của các nước trên thế giới là có tư hữu nhỏ, sản xuất nông nghiệp, sống ở nông thôn v.v., còn có đặc điểm riêng là chịu ảnh hưởng của văn hoá làng xã, của các tập quán lâu đời của dân tộc, của điều kiện tự nhiên của đất nước, nên rất cần cù lao động, có khả năng chịu đựng được những khó khăn trong cuộc sống.
- Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
VD: Sự thay đổi một đặc tính nào đấy của sinh vật trước sự thay đổi của môi trường diễn ra bằng cách, ban đầu xuất hiện một đặc tính ở một cá thể riêng biệt. Do phù hợp với điều kiện mới, đặc tính đó được bảo tồn, duy trì ở nhiều thế hệ và trở thành phổ biến của nhiều cá thể. Những đặc tính không phù hợp với điều kiện mới, sẽ mất dần đi và trở thành cái đơn nhất.
3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận
- Vì cái chung là cái sâu sắc, bản chất hơn cái riêng, do đó trong nhận thức và hoạt động thực tiễn phải biết phát hiện ra cái chung, vận dụng cái chung để cải tạo cái riêng. Nếu không hiểu biết cái chung sẽ rơi vào tình trạng mò mẫm, mù quáng.
- Vì cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, nên bất kỳ cái chung nào khi áp dụng vào trường hợp riêng cũng cần được chú ý đến các đặc điểm cụ thể, nếu không sẽ rơi vào bệnh rập khuôn, giáo điều. Ngược lại, nếu xem thường cái chung, tuyệt đối hóa cái riêng sẽ rơi vào bệnh cục bộ, địa phương chủ nghĩa.
VD: Khi áp dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, phải căn cứ vào tình hình cụ thể của từng thời kỳ lịch sử ở mỗi nước để vận dụng những nguyên lý đó cho thích hợp, có vậy mới đưa lại kết quả trong hoạt động thực tiễn.
- Trong hoạt động thực tiễn cần phải tạo điều kiện cho cái đơn nhất và cái chung chuyển hóa lẫn nhau theo chiều hướng tiến bộ, có lợi.

NỘI DUNG VÀ HÌNH THỨC

1. Khái niệm:
- Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố, những quá trình tạo nên sự vật.
VD: Nội dung của một cơ thể động vật là toàn bộ các yếu tố vật chất như tế bào, các khí quan cảm giác, các hệ thống, các quá trình hoạt động của các hệ thống... để tạo nên cơ thể đó.
VD: Nội dung một tác phẩm văn học là toàn bộ những sự kiện của cuộc sống hiện thực mà tác phẩm phản ánh
- Hình thức là phương thức tồn tại và phát triển của sự vật, là hệ thống các mối liên hệ tương đối bền vững giữa các yếu tố của sự vật đó.
VD: Hình thức của một cơ thể động vật là trình tự sắp xếp, liên kết các tế bào, các hệ thống... tương đối bền vững của cơ thể.
VD: Hình thức bên trong của tác phẩm đó là thể loại, những phép thể hiện được tác giả sử dụng trong tác phẩm như phương pháp kết cấu bố cục, nghệ thuật xây dựng hình tượng, các thủ pháp miêu tả, tu từ...
VD: Trong làm bài thi triết học: Thí sinh viết câu trả lời như thế nào là hình thức, viết cái gì trong bài thi là nội dung.
Bất cứ sự vật nào cũng có hình thức bề ngoài của nó. Song phép biện chứng duy vật chú ý chủ yếu đến hình thức bên trong của sự vật, nghĩa là cơ cấu bên trong của nội dung.
2. Mối quan hệ biện chứng giữa nội dung và hình thức:
- Không có hình thức nào tồn tại không chứa đựng nội dung, ngược lại cũng không có nội dung nào lại không tồn tại trong một hình thức xác định. Nội dung nào có hình thức đó.
VD: Nội dung đổi mới trong giáo dục nước ta hiện nay nhằm phát triển nhân cách, tâm lực, trí lực của người học. Hình thức là đổi mới sách giáo khoa, phương pháp dạy học……
VD: Nội dung phát triển kinh tế nước ta hiện nay là thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cơ bản đến năm 2010 trở thành nước công nghiệp phát triển theo hường hiện đại. Hình thức là đa phương hóa, đa dạng hóa các loại hình kinh tế, kêu gọi đầu tư nước ngoài…..
- Cùng một nội dung trong tình hình phát triển khác nhau có thể cò nhiều hình thức, và ngược lại, cùng một hình thức có thể thể hiện những nội dung khác nhau.
VD: Quá trình sản xuất ra một sản phẩm có thể bao gồm những yếu tố nội dung giống nhau như: con người, công cụ, vật liệu... nhưng cách tổ chức, phân công trong quá trình sản xuất có thể khác nhau.
- Nội dung giữ vai trò quyết định đối với hình thức trong quá trình vận động phát triển của sự vật nhưng nội dung dễ biến đổi, còn hình thức là tương đối bền vững. Để sự vật phát triển được, đến một lúc nào đó, hình thức nhất định phải thay đổi cho phù hợp sự phát triển của nội dung.
VD: Mỗi giai đoạn phát triển nền kinh tế trong lịch sử thì nội dung là nhân tố con người phát triển đến một trình độ nhất định đòi hỏi hình thức kinh tế phải thay đổi cho phù hợp với yêu cầu xã hội. Điều đó dẫn đến sự biến đổi từ chế độ công xã nguyên thủy đến chế độ chiếm hữu nô lệ; chế độ phong kiến; chế độ tư bản chủ nghĩa….
- Hình thức phù hợp với nội dung thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy nội dung phát triển. Hình thức không phù hợp với nội dung sẽ ngăn cản, kìm hãm sự phát triển của nội dung.
VD: Trong mười năm thực hiện chế độ bao cấp ở nước ta đã làm kìm hãm sự phát triển của đất nước. Nhưng từ sau đổi mới cho đến nay, chúng ta xây dựng kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường…. đã tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển.
3) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức không được tách rời tuyệt đối hóa giữa nội dung và hình thức. Đặc biệt cần chống chủ nghĩa hình thức.
- Trong hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội cần phải chủ động sử dụng nhiều hình thức khác nhau, đáp ứng với yêu cầu thực tiễn của hoạt động cách mạng trong những giai đoạn khác nhau.
- Trong hoạt động thực tiễn phải thường xuyên đối chiếu giữa nội dung và hình thức và làm cho hình thức phù hợp với nội dung để thúc đẩy nội dung phát triển.

KHẢ NĂNG VÀ HIỆN THỰC

1. Khái niệm:
- Phạm trù hiện thực được dùng để phản ánh những gì hiện có, hiện đang tồn tại thực sự.
VD: Sinh viên thi đậu đại học và đang theo học tại khoa Giáo dục Chính trị trường đại học sài gòn là hiện thực.
- Phạm trù khả năng được dùng để chỉ những gì hiện chưa có, nhưng sẽ có, sẽ tới khi có các điều kiện tương ứng.
VD: Sinh viên học bài đầy đủ, tham gia học tốt, tích cực phấn đấu học hỏi trong học tập….thì thi đậu, tốt nghiệp ra trường là khả năng sẽ sảy ra.
VD: Trước mắt ta là một đống gạch, si măng, đá…. Là hiện thực. Thì khả năng sảy ra là sẽ có một ngôi nhà.
Lưu ý:
- Khả năng là "cái hiện chưa có" nhưng bản thân khả năng để xuất hiện sự vật đó thì tồn tại.
VD: Trước mắt ta có đủ gỗ, cưa, bào, đục, đinh... đó là hiện thực. Từ đó nảy sinh khả năng xuất hiện một cái bàn. Trong trường hợp này, cái bàn là chưa có, chưa tồn tại trên thực tế nhưng khả năng xuất hiện cái bàn thì tồn tại trên thực sự.
- Mọi khả năng đều là khả năng thực tế. Phân biệt khả năng thành: Khả năng tất nhiên (được hình thành do quy lật nội tại) và khả năng ngẫu nhiên (do các tương tác ngẫu nhiên)
VD: Gieo hạt ngô xuống đất, khả năng hạt ngô sẽ nảy mầm, mọc thành cây và lại do những hạt ngô mới là khả năng tất nhiên, nhưng cũng có khả năng hạt ngô bị chim ăn hoặc bị sâu bệnh phá hoại nên không thể nảy mầm, không thể phát triển thành cây, cho hạt được. Khả năng này do những tác động có tính ngẫu nhiên quy định nên được gọi là khả năng ngẫu nhiên.
- Trong khả năng tất nhiên lại bao gồm khả năng gần và khả năng xa.
VD:
2. Mối quan hệ biện chứng giữa khả năng và hiện thực:
- Khả năng và hiện thực tồn tại trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời nhau, thường xuyên chuyển hóa lẫn nhau trong quá trình phát triển của sự vật.
VD: Một công ty có sản phẩm tốt, mẫu mã đẹp, đáp ứng yêu cầu của người tiêu dùng thì sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhanh chóng trên thị trường.
- Cùng trong những điều kiện nhất định, ở cùng một sự vật có thể tồn tại nhiều khả năng chứ không phải chỉ một khả năng.
VD: một sinh viên chăm chỉ trong học tập thì đi thi khả năng sẽ đạt kết quả cao nhưng có thể vì một lý do nào đó mà đi thi đạt kết quả thấp – điều đó có thể sảy ra.
- Trong hiện thực mới nảy sinh khả năng mới, khả năng mới nếu có những điều kiện lại biến thành hiện thực mới.
VD: Nước ta vốn là nước kinh tế kém phát triển, mức sống của nhân dân còn thấp, nhưng lại phải trải qua cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt để hội nhập. Nếu chúng ta không nhanh chóng vươn lên thì khả năng càng tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới và sự bất lợi về mở rộng sản xuất kinh doanh, trao đổi buôn bán càng lớn.
- Để khả năng biến thành hiện thực, thường cần không phải chỉ một điều kiện mà là một tập hợp nhiều điều kiện.
VD: Để một hạt thóc có khả năng nảy mầm, cần một tập hợp các điều kiện như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, áp suất...
- Trong đời sống xã hội, hoạt động có ý thức của con người có vai trò hết sức to lớn trong việc biến khả năng thành hiện thực. Không thấy vai trò của nhân tố chủ quan của con người sẽ rơi vào sai lầm hữu khuynh chịu bó tay, khuất phục trước hoàn cảnh. Tuy nhiên cũng không được tuyệt đối vai trò của nhân tố chủ quan mà xem thường những điều kiện khách quan. Như vậy chúng ta dễ rơi vào sai lầm chủ quan, mạo hiểm, duy ý chí.
3. Một số kết luận về mặt phương pháp luận:
- Trong hoạt động thực tiễn cần dựa vào hiện thực, không được dựa vào khả năng để định ra chủ trương, phương hướng hành động của mình. Tuy nhiên, cũng phải tính đến các khả năng để việc đề ra chủ trương, kế hoạch hành động sát hợp hơn.
- Trong xã hội, chúng ta phải chú ý đến việc phát huy nguồn lực của con người, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc phát huy tính năng động sáng tạo của mỗi con người đề biến khả năng thành hiện thực thúc đẩy xã hội phát triển.
- Tuy nhiên cũng cần tránh hai thái cực sai lầm, một là: tuyệt đối hóa vai trò nhân tố chủ quan; hai là: hạ thấp vai trò nhân tố chủ quan trong việc biến khả năng thành hiện thực.

CHUONG III: NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT

NHỮNG QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I./ Khái niệm:
Quy luật là mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến, lập đi lập lại của các sự vật, hiện tượng giữa các yếu tố, thuộc tính tạo thành sự vật cũng như thuộc tính của cùng một sự vật.
Những đặc tính cơ bản của quy luật:
- Tính ổn định: lặp đi lặp lại mà không thay đổi hoặc ít thay đổi trong điều kiện nhất định.
VD: Trong điều kiện bình thưởng thì trẻ em sinh ra, lớn lên, trưởng thành, phát triển tâm sinh lý bình thường….
- Tính phổ biến: là những quy luật tác động trong tất cả các lĩnh vực: từ tự nhiên, xã hội cho đến tư duy
VD: Sự phát triển của con người dù ở đâu cũng giống nhau….
- Tính khách quan: Con người không thể tạo ra hoặc xóa bỏ được quy luật mà chỉ nhận thức và vận dụng nó trong thực tiễn
VD: Dù muốn hay không thì chúng ta vẫn lớn lên, vì cơ thể chúng ta tuân theo quy luật sinh trưởng của tự nhiên. Chúng ta không thể dùng suy nghĩ của mình mà dừng nó lại được
Chú ý:
+ Con người không thể sáng tạo ra quy luật nhưng tính sáng tạo của con người là phát hiện ra quy luật.
VD: Chặt phá rừng bừa bãi sẽ tác hại đến môi trường. Chúng ta có thể hạn chế tác hại của môi trường bằng cách ngăn chặn nạn phá rừng.
+ Ngay cả trong môi trường tự nhiên quy luật cũng…………….thiếu
VD: Các chất mới trong hóa học mà con người tạo ra.
Những quy luật cơ bản:

QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP (QUY LUẬT MÂU THUẪN)
Nhằm chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển.
1) Khái niệm:
- Mặt đối lập là sự khái quát những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng trái ngược nhau trong một chỉnh thể làm nên sự vật, hiện tượng. Tồn tại khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy.
VD: Trong nguyên tử có điện tử và hạt nhân; trong kinh tế thị trường có cung và cầu, hàng và tiền; trong sinh vật có đồng hoá và dị hoá, hấp thụ và bài tiết, di truyền và biến dị;..v..v..
VD:Giai cấp công nhân và giai cấp tư sản là hai mặt đối lập trong kết cấu mâu thuẫn giai cấp của xã hội tư bản.
Bruno: “Ai muốn tìm hiểu sâu xa của tự nhiên thì hãy nhìn điểm thấp nhất và cao nhất của vũ trụ”.
V.I. Lê nin viết “ Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những giải thích và một sự phát triển thêm”
- Thống nhất: Là hai mặt đối lập trong cùng một chỉnh thể ràng buộc, quy định nhau. Mặt đối lập này ràng buộc mặt đối lập kia, không có mặt này sẽ không có mặt kia. Sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề. Tuy nhiên, sự thống nhất này chỉ mang tính tương đối.
VD: Sự hoạt động trong một nhà máy có ông chủ và người làm thuê. Nếu không có người làm thuê với tư cách là bán sức lao động thì ông chủ sẽ không thể là người mua sức lao động.
VD: Trong sinh vật có hai mặt đối lập là đồng hóa và dị hóa thống nhất với nhau, nếu thiếu một trong hai mặt thì cây sẽ chết.
VD: Âm dương hòa hợp.
VD: Xấu và tôt…..
Theo Heracit: Các mặt đối lập gắn bó, quy định, ràng buộc nhau. Ông khẳng định, vũ trụ là một thể thống nhất nhưng trong lòng nó luôn diễn ra các cuộc đấu tranh của các lực lượng đối lập, nhờ vậy vũ trụ tồn tại và vận động.
Lênin: “Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các đối lập với nó đó là thực chất phép biên chứng”
- Đấu tranh: trong cùng một sự vật, các mặt đối lập luôn có tính chất đối lập nên không nằm yên bên nhau mà bài trừ, chuyển hóa cho nhau, đó chính là đấu tranh của mặt đối lập.
VD: Sự đấu tranh sinh tồn của động vật……
Karl Marx (1818 – 1883) viết: “Cái cấu thành bản chất của sự vận động biện chứng , chính là sự cùng nhau tồn tại của hai mặt mâu thuẫn, sự đấu tranh giữa hai mặt ấy và sự dung hợp của hai mặt ấy thành một phạm trù mới”.
Bruno: “các sắp xếp của tự nhiên………thiếu
Bruno: “hoàn toàn không đúng nếu cho rằng…..thiếu
- Mâu thuẫn: (Ở đây được hiểu là mâu thuẫn biện chứng) là sự thống nhất, ràng buộc nhau của các mặt đối lập trong cùng một sự vật. Mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và phát triển.
VD: Sự phát triển của cây xanh….
Theo Hêghen: “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi sự vận động và của tất cả mọi sức sống”; “tất cả mọi vật đều có tính mâu thuẫn trong bản thân nó”; “mâu thuẫn thực tế là cái thúc đẩy thế giới”.
2) Nội dung quy luật:
- Quan điểm siêu hình: Không thừa nhận mâu thuẫn bên trong sư vật, phủ nhận mâu thuẫn bên trong sự vật:
+ Cho sự vật là cái gì đó đồng nhất, thuần túy.
+ Chỉ thừa nhận sự khác nhau, sự xung đột đối kháng của các sự vật, hiện tượng.
- Quan điểm DVBC: Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng mâu thuẫn do đó có tính khách quan và phổ biến.
VD: Sự phát triển của cây, của động vật…..
+ Sự vật cũ mất đi dẫn đến sự vật mới sinh ra và do đó sinh ra mâu thuẫn mới.
VD: A -> B -> C -> D
VD: Đồng hóa và dị hóa
+ Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là quá trình phức tạp, quá trình ấy có thể chia ra nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng. Khi mới xuất hiện, mâu thuẫn thường được thể hiện dưới sự khác nhau của hai mặt và khi hai mặt đối lập ấy có khuynh hướng phát triển trái ngược nhau thì mâu thuẫn dần gay gắt đến một lúc khi có điều kiện chín mùi hai mặt sẽ chuyển hóa lẫn nhau (lưu ý:chuyển hóa ở đây là phát sinh một hình thức mới). Mâu thuẫn được giải quyết, kết quả là sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ bị phá hủy, sự thống nhất của hai mặt đối lập mới hình thành cùng mâu thuẫn mới. Mâu thuẫn mới này lại triển khai rồi lại được giải quyết làm cho sự vật mới luôn luôn xuất hiện thay thế sự vật cũ. Vì vậy, không sự vật nào vĩnh viễn tồn tại.
VD: Thay đổi giai cấp: chế độ công xã nguyên thủy -> chế độ chiếm hữu nô lệ -> chế độ phong kiến -> tư bản chủ nghĩa ->…..
VD: Nền kinh tế VN chuyển hóa từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
V.I. Lênin viết: “ Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối lập”.
+ Do sự đồng nhất của các mặt đối lập mà trong sự triển khai mâu thuẫn, đến một mức nào đó, mặt đối lập này có thể chuyển hóa sang mặt đối lập kia – khi xét về một vài đặc trưng nào đó.
VD: Sự phát triển kinh tế trong chủ nghĩa tư bản phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, nhưng lại tạo ra tiền đề cho sư thay thế chủ nghĩa tư bản bằng chủ nghĩa xã hội.
Kết luận: Khi mâu thuẫn được giải quyết thì sự thống nhất của hai mặt đối lập cũ được thay thế bằng sự thống nhất của hai mặt đối lập mới. Các mặt đối lập mới lại mâu thuẫn tiếp tục đấu tranh với nhau, cứ như thế mà sự vật vận động phát triển.
Cho nên, sự thống nhất của các mặt đối lập là tương đối, biểu hiện trạng thái đứng yên tương đối của sự vật. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập là tuyệt đối, biểu hiện sự vận động tuyệt đối của sự vật.
V.I.Lênin viết: “Sự thống nhất(phù hợp, đồng nhất, có tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”.
Thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập là không thể tách rời nhau trong mâu thuẫn biện chứng. Sự vận động và phát triển bao giờ cũng là sự thống nhất giữa tính ổn định và tính thay đổi. Sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập quy định tính ổn định và tính thay đổi của sự vật . Do đó mâu thuẫn chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.
Phân loại mâu thuẫn:
a) Căn cứ vào tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội thành mâu thuẫn đối kháng và mâu thuẫn không đối kháng:
+ Mâu thuẫn đối kháng: là mâu thuẫn giữa giai cấp, tầng lớp…. khác biệt không có điểm chung, không thể điều hòa.
VD: Chủ nô và nông nô; địa chủ, tư bản và vô sản…..
+ Mâu thuẫn không đối kháng: Là mâu thuẫn giữa những lực lượng xã hội có lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời.
VD: Mâu thuẫn giữa lao động trí óc với lao động chân tay, giữa thành thị với nông thôn,..v..v
b) Căn cứ vào quan hệ đối với sự vật được xem xét , người ta phân biệt thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài.
+ Mâu thuẫn bên trong là sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh hướng đối lập của cùng một sự vật.
VD: Trong phạm vi nước ta mâu thuẫn trong nội bộ nền kinh tế quốc dân là mâu thuẫn bên trong
+ Mâu thuẫn bên ngoài đối với một sự vật nhất định là mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ sự vật đó với các sự vật khác
VD: Mâu thuẫn về kinh tế giữa nước ta với các nước ASEAN khác lại là mâu thuẫn bên ngoài.
Việc phân chia mâu thuẫn thành mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài chỉ là sự tương đối, tuỳ theo phạm vi xem xét
VD: Nếu trong phạm vi ASEAN thì mâu thuẫn giữa các nước trong khối lại là mâu thuẫn bên trong.
c) Căn cứ vào ý nghĩa đối với sự tồn tại và phát triển của toàn bộ sự vật, mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản:
+ Mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn quy định bản chất của sự vật, quy định sự phát triển ở tất cả các giai đoạn của sự vật, nó tồn tại trong suốt quá trình tồn tại các sự vật. Mâu thuẫn cơ bản được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi cơ bản về chất.
VD:
+ Mâu thuẫn không cơ bản là mâu thuẫn chỉ đặc trưng cho một phương diện nào đó của sự vật, nó không quy định bản chất của sự vật. Mâu thuẫn đó nảy sinh hay được giải quyết không làm cho sự vật thay đổi căn bản về chất .
VD:
d) Căn cứ vào vai trò của mâu thuẫn đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn nhất định, các mâu thuẫn được chia thành mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu:
+ Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên hàng đầu của một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật và chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó.
VD:
+ Mâu thuẫn thứ yếu là những mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật nhưng nó không đóng vai trò chi phối mà bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối
VD:
3) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Thừa nhận tính khách quan của mâu thuẫn trong các sự vật, hiện tượng.
- Biết phân tích cụ thể một mâu thuẫn cụ thể và tìm cách giải quyết cụ thể đối với từng mâu thuẫn. Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi điều kiện đã chín muồi.
- Nắm vững nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn, đó chính là đấu tranh giữa các mặt đối lập chứ không thể dung hòa các mặt đối lập. Phải có biện pháp thích hợp cho từng mâu thuẫn.
VD:Muốn thúc đẩy chất lượng học tập của tập thể lớp lên cao thì phải nêu cao tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình.
V.I.Lênin viết: “ Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức của các bộ phận của nó, đó là thực chất…của phép biện chứng”.

QUY LUẬT THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG CHUYỂN THÀNH THAY ĐỔI VỀ CHẤT.
1) Khái niệm:
a) Chất: Là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định bên trong vốn có của sự vật, là sự thống nhất hữu cơ các thuộc tính, làm cho nó là nó và phân biệt nó với các sự vật khác.
VD: Kết hợp giữa oxi và hidro tạo thành nước
Các đặc điểm của chất:
+ Biểu hiện trạng thái ổn định của sự vật làm cho nó tồn tại mà chưa biến thành cái khác.
VD: Từ 0 -> 100 độ thì nước giữ ở trạng thái là chất lỏng.
+ Chất biểu hiện tính thống nhất, tính toàn vẹn của sự vật, hiện tượng, gắn liền kết cấu của sự vật, nghĩa là dưới hình thức tổ chức nhất định của các yếu tố cấu thành sự vật, là sự tổng hợp những thuộc tính tổng hợp. Là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính.
VD: Viên phấn thì có nhiều yếu tố bên trong như: trắng, rắn, không mùi, vôi….. (gồm yếu tố cơ bản và không cơ bản)
+ Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự vật. Chính chúng quy định sự tồn tại, sự vận động và sự phát triển của sự vật, chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay đổi hay mất đi. Tuy nhiên, sự phân chia thuộc tính thành thuộc tính cơ bản và thuộc tính không cơ bản cũng chỉ mang tính chất tương đối, tùy theo từng mối quan hệ
VD: Trong môt tác phẩm văn học bao gồm các yếu tố như: Chủ đề, nội dung, nghệ thuật, giá trị tư tưởng….. Trong đó giá trị tư tưởng là cơ bản nhất.
VD 2: Kim cương và than chì đều có cùng thành phần hoá học là nguyên tố các bon tạo nên; nhưng do phương thức liên kết giữa các nguyên tử các bon là khác nhau, vì thế chất của chúng hoàn toàn khác nhau. Kim cương rất cứng, còn than chì lại rất mềm.
+ Tính khách quan: Trong hiện thực khách quan không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật.
Beccoli: “ Chất là do cảm giác của ta mà có”
+ Chất không chỉ bao hàm những yếu tố làm cho sự vật khác nhau mà còn bao hàm những yếu tố chung giống nhau giữa các sự vật.
VD: Động vật và thực vật có các yếu tố khác nhau nhưng cũng có những điểm giống nhau như: cơ quan dinh dưỡng…..
b) Lượng: Là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật, hiện tượng về quy mô, trình độ phát triển và được biểu thị bằng quy mô, các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó.
VD: 1 lượng, hai lượng, 1 mét, 2 mét,…. Cũng có những lượng biểu thị dưới dạng trừu tượng như: tri thức, ý thức….
Engles (1820 – 1895) cho rằng: những chất lượng không tồn tại, mà những sự vật có chất lượng, hơn nữa, những sự vật có vô vàn chất lượng mới tồn tại.
Đặc điểm của lượng:
+ Lượng chưa nói rõ được sự khác nhau cơ bản của sự vật, hiện tượng.
+ Biểu hiện về mặt thông số, lượng….
+ Sự vật càng phức tạp thì các thông số về lượng càng phức tạp.
+ Trong mối quan hệ này, lượng như là nhân tố bên trong sự vật, trong mối quan hệ khác, lượng như là nhân tố bên ngoài sự vật.
+ Có tính khách quan.
2) Nội dung:
- Mỗi sự vật hiện tượng là một thể thống nhất giữa chất và lượng, hai mặt đó không tách rời nhau mà tác động lẫn nhau. Trong sự vật, tính quy định về chất sẽ không tồn tại nếu không có tính quy định về lượng và ngược lại khi sư vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
+ “Độ” là khái niệm triết học chỉ sự thống nhất giữa chất và lượng, là giới hạn mà trong đó sự vật, hiện tượng vẫn còn là nó, chưa bị biến thánh cái khác.
+ Nói cách khác, chất nào thì lượng ấy. Không phải lượng nào cũng phù hợp chất ấy mà chỉ ở một hạn nhất định nếu vượt quá thì thành chất khác.
VD: Nước là chất lỏng ở từ 0 ->100 độ,…
+ Trong phạm vi 1 độ nhất định, hai mặt chất và lượng tác động nhau làm cho sư vật vận động biến đổi. Chính sự thay đổi dần về lượng dẫn đến thay đổi về chất. Chất đổi tức là sự vật cũ biến thành sự vật mới.
- Không phải bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng dẫn đến sự thay đổi về chất ngay tức khắc, mặc dù bất kỳ sự thay đổi nào về lượng cũng ảnh hưởng đến trạng thái tồn tại của sự vật. Chỉ khi nào lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định (điểm nút) thì mới dẫn đến sự thay đổi về chất. Sự thay đổi căn bản về chất được gọi là bước nhảy
+ “Điểm nút”: là khái niệm chỉ giới hạn mà tại đó sự thay đổi lượng dẫn đến thay đổi chất của sự vật. Chất mới của sự vật chỉ có thể xuất hiện khi sự thay đổi về lượng của nó đạt tới điểm nút.
VD: Điểm nút của nước ở 0 độ và 100 độ
+ “Bước nhảy”: Từ hình thức này chuyển thành hình thức khác. Gồm: bước nhảy toàn bộ và bước nhảy cục bộ…..
VD: Cây non -> cây xanh -> cây khô.
VD: Sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta đang diễn ra từng bước nhảy cục bộ để thực hiện bước nhảy toàn bộ, tức là chúng ta đang thực hiện những bước nhảy cục bộ ở lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực chính trị, lĩnh vực xã hội và lĩnh vực tinh thần xã hội để đi đến bước nhảy toàn bộ - xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.
Lênin nhấn mạnh: “tính tiệm tiến mà không có bước nhảy vọt, thì không giải thích được gì cả”.
Như vậy, sự phát triển của bất cứ của sự vật nào cũng bắt đầu từ sự tích luỹ về lượng trong độ nhất định cho tới điểm nút để thực hiện bước nhảy về chất. Song điểm nút của quá trình ấy không cố định mà có thể có những thay đổi do tác động của những điều kiện khách quan và chủ quan quy định
Chú ý: Cần phân biệt sự biến đổ về lượng dẫn đến sự biến đổi về chất. Lượng đổi trong một phạm vi nào đó vẫn chưa tác động đến chất. Nhưng biến đổi đến giới hạn nhất định dẫn đến biến đổi chất. Tức là chất đổi tạo ra sự vật khác.
Marx: “Những thay đổi đơn thuần về lượng đến một mức độ nhất định sẽ chuyển hóa thành sự khác nhau về chất”.
Kết luận:
Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất, sự thay đổi dần dần về lượng trong khuôn khổ của độ tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không ngừng phát triển, biến đổi
Khái niệm tiến hóa và khái niệm cách mạng:
+ Tiến hóa: là sự thay đổi về lượng cùng với những biến đổi nhất định về chất, nhưng là chất không căn bản của sư vật.
VD: Công xã nguyên thủy -> chế độ chiếm hữu nô lê -> chế độ phong kiến -> chế độ tư bản chủ nghĩa -> chế độ xã hội chủ nghĩa……
+ Cách mạng: là sự thay đổi mà trong quá trình đó diễn ra sự cải tạo căn bản về chất của sự vật, không phụ thuộc vào sự cải tạo đó diễn ra như thế nào.
VD: Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất…..
Victo Hugo: “Những vùng vẫy thô bạo của tiến hóa là những cuộc cách mạng và qua rồi người ta nhận thấy điều này là nhân loại sẽ bị dày vò nhưng nhân loại đã tiến lên”
3) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Giúp chúng ta khắc phục tư tưởng nôn nóng, tả khuynh:
+ Tả khuynh: khi mà lượng chưa cho phép thì chư thể thực hiện bước nhảy về chất
VD: Những cuộc cách mạng thất bại của nước ta: 1940 khởi nghĩa Nam Kỳ, khởi nghĩa Mậu Thân 1968….
VD: Sinh viên thi rớt, không ra trường được là do lười biếng không chiu khó học.
- Giúp khắc phục tư tưởng bảo thủ triệt để, hữu khuynh.
+ Hữu khuynh: khi sự vật đã tích lũy đủ về lượng rồi mà vẫn chưa dám thay đổi về chất.
VD: Học anh văn tốt nhưng không dám đi thi; ôn thi rất kỹ nhưng vẫn không dám đang ký thi đại học…..
- Biết tôn trọng tính khách quan của quy luật và quyết tâm thực hiện bước nhảy khi hội đủ các điều kiện chín muồi..

QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
1) Khái niệm:
- Phủ định: Là chỉ sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động và phát triển.
Trong ý thức thông thường, khái niệm “phủ định” thường được thể hiện bằng từ “không” bác bỏ một cái gì đó. Trong phép biện chứng, phủ định được xem là nhân tố của sự phát triển. Do vậy, khái niệm phủ định có ý nghĩa sâu sắc hơn so với cách sử dụng trong đời thường. Để đặc trưng cho điều đó, người ta đưa khái niệm phủ định biện chứng.
- Phủ định biện chứng: Là quá trình tự thân phủ định, tư thân phát triển, là một mắt khâu trên con đường dẫn tới sự ra đời cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định.
VD: Trong sinh vật các giống loài đều có tính di truyền, các thế hệ con cái đều kế thừa những yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ.
Karl Marx (1818-1883): “Không có lãnh vực nào lại có sự phát triển mà không phủ định những hình thức đã có từ trước”
Friedrich Engels (1820-1895): “Phủ định trong phép biện chứng”
2) Các đặc điểm:
+ Tính khách quan: Là nguyên nhân của sự phủ định các mới ra đời từ cái cũ, là giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, không do ý muốn con người.
VD: Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, xã hội mới ra đời trên cơ sở kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội trước, đồng thời bổ sung thêm những giá trị mới.
+ Tính kế thừa: Không phải là phủ định sạch trơn, tuyệt đối mà là có tính kế thừa. Kế thứa có chọn lọc, có cân nhắc, hoàn thiện hơn sự vật cũ.
VD: Phủ định chủ nghĩa tư bản để phát triển lên XHCN cần giữ lại những thành tựu của nó và phát triển trên cơ sở những nguyên tắc của CNXH. …
VD: Chọn lọc tự nhiên,….
Với nghĩa như vậy, phủ định đồng thời cũng là khẳng định.
Lênin viết: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự; cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng… mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định” (lenin toàn tập, nxb tiến bộ, mátxcơva, 1981, t.29, tr.245)
3) Nội dung quy luật:
- Trong sự vận động vĩnh viễn của vật chất, Phủ định biện chứng là một sợi dây chuyền vô tận, cái mới phủ định cái cũ nhưng rồi cái mới này lại trở nên cũ và lại bị cái mới sau phủ định. Sự phát triển của sự vật thông qua những lần phủ định như thế tạo ra một khuynh hướng phát triển tất yếu là đi từ thấp đến cao. Do đó không có phủ định đầu và cuối.
VD: Trong lĩnh vực nhận thức các học thuyết khoa học ra đời sau bao giờ cũng kế thừa những giá trị tư tưởng của các học thuyết khoa học ra đời trước.v.v.
- Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển là do quy luật bên trong của sự vật. Một lần phủ định là kết quả của đấu tranh và chuyển hóa lẫn nhau trong bản thân sự vật. Đó chính là đấu tranh giữa mặt khẳng định và phủ định. Sự phủ định lần một làm sự vật cũ đối lập với mình. Phủ định lần hai sự vật mới chuyển thành cái đối lập với nó tức là trở lại cái ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
Chu kỳ thông thường của phủ định:
- Chiều hướng cơ bản của sự vận động, biến đổi của thế giới là tiến lên. Sự phát triển của sự vật thông qua vô số chu kỳ của sự PĐBC mà trong 1 chu kỳ trải qua 2 lần phủ định cơ bản:
+ Lần phủ định thứ nhất: sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với nó. Lần phủ định này mang tính chất phiến diện nhưng nó là lần PĐ trung gian cần thiết, tất yếu tạo điều kiện cho lần PĐ thứ 2
+ Lần phủ định thứ 2 (Phủ định của phủ định): sự vật mới ra đời, sự vật này đối lập với cái được sính ra ỏ lần phủ định 1, nó được bổ sung nhiều nhân tố mới.
Khẳng định -> phủ định -> phủ định của phủ định
VD: Thóc -> cây lúa -> thóc.
- Trong hiện thực 1 chu kỳ phát triển có thể nhiều hơn 2 lần phủ định.
VD: Con tằm: trứng -> tằm -> nhộng -> ngài -> trứng: 4 lần phủ định.
- Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính tất yếu của sự vận động, phát triển của sự vật theo con đường phát triển tiến lên nhưng đó không phải là con đường thẳng tắp mà là con đường quanh co, phức tạp. Lênin hình dung đó là con đường xoáy ốc.
4) Ý nghĩa phương pháp luận:
- Giúp ta hiểu đúng su hướng của sự phát triển, đó là một con đường quanh co, phức tạp (đặc biệt là trong xã hội). Chúng ta phải tìm hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp sao cho sự phát triển nhanh hoặc phát triển chậm. Nếu sự vật có ích lợi cho con người thì phải đẩy nhanh sự phát triển của nó, còn nếu nó có hại thì phải kìm hãm sự phát triển của nó.
- Giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về cái mới để có một thái độ đúng mực trong việc ủng hộ cái mới. Đồng thời, chúng ta phải khắc phục tư tưởng bảo thủ, khư khư giữ lấy những cái lỗi thời cản trở sự phát triển của con người và xã hội. Dù khi mới xuất hiện cái mới còn non yếu nó sẽ là cái chiến thắng.

Kết luận chung:
Mỗi quy luật cơ bàn của PBC đề cập một phương diện cơ bản của quá trình vận động và phát triển. Trong thực tế, sự vận động và phát triển của bất kỳ một sự vật hay hiện tượng nào cũng là sản phẩm tác động tổng hợp của tất cả các quy luật của PBC. Trong quá trình t ích lũy về lượng để tiến tới thay đổi về chất cũng phải chú ý phát hiện mâu thuẫn, tìm ra phương thức và lực lượng thích hợp để giải quyết mâu thuẫn. Bước nhảy được thực hiện, mâu thuẫn được giải quyết cũng tức là sự phủ định biện chứng được hình thành. Cho nên, trong toàn bộ quá trình trên đây, chúng ta cần phát hiện ra các yếu tố tích cực đang tồn tại trong sự vật, loại bỏ những yếu tố lỗi thời ngăn cản sự ra đời của cái mới.
.

chương II: VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

VẬT CHẤT VÀ CÁC HÌNH THỨC TÔN TẠI CỦA NÓ

1) Khái niệm vật chất:
a) Những……..thiếu
* Thời kỳ cổ đại Hy Lạp (TK 6 ->3 TCN)
Vật chất với tính chất là phạm trù triết học ra đời trong triết học Hy Lạp thời cổ đại.
- Thế giới sinh ra từ đâu? Và tồn tại đến bao giờ? đó là câu hỏi khi con người có ý thức thời cổ đại.
- Trả lời câu hỏi đó các nhà triết học duy vật đã đồng nhất vật chất nói chung với những dạng cụ thể của nó, tức là với những dạng vật thể hữu hình, cảm tính đang tồn tại ở thế giới bên ngoài. Cụ thể:
+ Talet (624 – 547) coi thực thể củ thế giới là nước: “mọi vật đều sinh ra từ nước và trở về với nước”
+ Anaximen (585 – 525) coi thực thể đó là Không khí
+ Heraclitus (540 – 480) coi thực thể đó là Lửa: “Thế giới này chỉ là một đối với mọi cái. Không do một thần thánh hay một người nào đó sáng tạo ra nó, nhưng nó mãi mãi đã, đang và sẽ là ngọn lửa vĩnh cửu, như là độ đo của những cái đang rực cháy, và mức độ của những cái đang lụi tàn”. (Trích theo: Lịch sử triết học Hi – La, Tủ sách ĐH tổng hợp Hà Nội, 1990, Tập 1, tr. 1).
+ Anpedocolo (490 – 430): đất, nước, lửa, không khí.
+ Trung Quốc: Kim, mộc, thủy, hỏa, thổ.
+ Đemocrit (460 – 370): Thuyết nguyên tử. Là người đầu tiên nêu ra khái niệm nguyên tử.
+ Ấn Độ: vô thủy vô chung, là hạt vật chất nhỏ nhất.
Kết luận:
Triết học duy vật cổ đại:
Tiến bộ: Là tư tưởng vô thần là giải thích tự nhiên bằng tự nhiên mà không cần thần linh, thượng đế.
Hạn chế: Hiểu vật chất từ cảm tính trực tiếp, cho vật chất được tạo ra từ một vật ban đầu nào đó.
* Thời kỳ phục hưng:
- Thế kỷ XVII – XVIII:
Mặc dù có những bước phát triển và xuất hiện những tư tưởng biện chứng trong quan niệm về vật chất song những quan điểm của các nhà triết học duy vật thời kỳ này về cơ bản là khuynh hướng đồng nhất vật chất với nguyên tử hoặc với khối lượng, nó chịu ảnh hưởng mạnh bởi quan niệm của Newton. Do đó những quan niệm về vật chất ở thời kỳ này mang nặng tính siêu hình máy móc.
- Newton (1642 – 1727) nhà vật lý học, là người có công lớn nhất trong việc khôi phục triết học duy vật. làm sống lại tư tưởng, quan điểm nguyên tử của Đêmôcrit với tên gọi mới là những hạt nhân nguyên thủy hay “hạt rắn”
- Ông cho rằng: “Toàn bộ vũ trụ đều được cấu thành từ hạt rắn, tuyệt đối cứng, không gì phá vỡ, không ngừng chuyển động, không bị đâm xuyên”.
- Khối lượng là thuộc tính bất biến của vật chất.

* Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX:
- Cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, khoa học tự nhiên phát triển mà chủ yếu là vật lý học đã có hàng loạt các phát minh quan trọng đem lại cho con người những liên kết mới về cấu trúc và tính chất của vật chất, nó làm thay đổi căn bản những quan niệm trước đó về vật chất.
+1895: Rơnghen phát minh ra tia X
+1896: Becơren phát hiện ra hiện tượng phóng xạ.
+1897: Tomơn phát hiện ra điện tử.
+1901: Kanfman phát hiện ra sự thay đổi khối lượng điện tử khi vận tốc của nó tăng.
+ 1905: Công bố thuyết tương đối Einstein “khối lượng không phải là thuộc tính cơ bản và bất biến của vật chất, khối lượng có thể thay đổi”. khối lượng phụ thuộc vào tốc độ vận động của vật chất.
Einstein: “không gian, thời gian thay đổi” => học thuyết tương đối.
=> Khoa học phát triển phải có một cái nhìn khác về triết học.
Sai lầm:
+ Nguyên tử không phải là đơn vị nhỏ nhất, nó có thể bị phân rã, bị mất đi => Vật chất có thể bị mất đi.
+ Vật chất chỉ là năng lượng.
+ Khi đem công thức Newton vào nghiên cứu không áp dụng được nên họ nói thế giới không có quy luật => lập luận kém cỏi.
=> Triết học trượt sang CNDT và có nguy cơ bị sụp đổ.
Nhận xét: Các quan điểm trước Marx về vật chất đều có hạn chế do thời đại hiểu biết không đầy đủ, không vững vàng trên lập trường chủ nghĩa duy vật biện chứng.
* Định nghĩa vật chất của Lênin:
+ “Chủ nghĩa duy vật” và “chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán” là tác phẩm lớn của Lenin. Định nghĩa mang tính kinh điển.
Ông viết: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp ảnh lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác”. (V.I.Lênin: Toàn tập, NXB. Tiến bộ, Mátcơva, 1980, t.18, tr.151). Lenin chỉ rõ khi vật chất đối lập với ý thức trong nhận thức luận, thì cái quan trọng để nhận thức nó chính là thuộc tính khách quan.
- Phạm trù triết học: là phạm trù rộng lớn nhất, là khái niệm nhưng không phải khái niệm nào cũng là phạm trù. Phạm trù được nâng lên, phản ánh giới hạn cuối cùng không thể năng lên được nữa.
- Thực tại khách quan: là tất cả các sự vật hiện tượng hiện có, hiện đang tồn tại bên ngoài ý thức con người.
- Vật chất: Theo triết học không phải bất cứ sự vật hiện tượng riêng lẻ nào nhưng lại bao gồm tất cả sự vật hiện tượng.
VD: Đất, nước, lửa…. chỉ là một hiện tượng cụ thể của vật chất.
- Vô hạn: Theo triết học là không sinh ra, không mất đi, những sự vật hiện tượng cụ thể của vật chất thì có sinh ra và có mất đi. Là chuyển đổi từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác.
Khổng tử: “Tử bất quy thổ”
=> Quan điểm triết học: “không có cái đầu tiên và không có cái cuối cùng của thế giới”
- Bằng năng lực cảm giác của mình con người nhận biết sự tồn tại khách quan của vật chất hay ý thức con người có khả năng ghi lại và phản ánh vật chất.
Thành tựu khoa học ngày nay có ảnh hưởng đến học thuyết của lênin.
Kết luận:
+ Vật chất là tất cả những gì có thuộc tính tồn tại khách quan không phụ thuộc vào ý thức và khi tác động vào giác quan thì gây ra cảm giác.
+ Vật chất tồn tại khách quan là tồn tại dưới dạng các sự vật cảm tính, tức là dưới dạng mà giác quan con người có thể nhận biết trực tiếp hay gián tiếp, vật chất không tồn tại thần bí mà tồn tại hiện thực. Do đó, về nguyên tắc không có đối tượng vật chất không thể nhận thức được mà chỉ có đối tượng vật chất chưa nhận thức được.
+ Một thế giới quan đúng đắn chỉ có thể được xây dựng từ quan điểm về vật chất của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

VẬT CHẤT VÀ VẬN ĐỘNG

Khái niệm vận động: Vận động không phải chỉ sự di chuyển nói chung trong không gian mà là sự biến đổi nói chung.
Friedrich Engels (1820 – 1895) viết: “Vận động hiểu theo nghĩa chung nhất (…) bao gồm tất cả mọi sự thay đổi và mọi quá trình diễn ra trong vũ trụ, kể từ sự thay đổi vị trí từ đơn giản đến tư duy” (Karl Marx và Friedrich Engels: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia HN,1994, t.20, tr.519)
Friedrich Engels (1820 – 1895): vận động là “thuộc tính cố hữu của vật chất” “là phương thức tồn tại của vật chất” (Karl Marx và Friedrich Engels: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia HN,1994, t.20, tr.89)
Điều này có nghĩa là:
+ Vận động là phương thức tồn tại của vật chất (không có vận động không thể hiện nó đang tồn tại)
+ Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất (gắn liền, không thể thiếu trong sự tồn tại của vật chất)
+ Vận động là mọi biến đổi nói chung.
Khổng tử: “Biến hóa giả, tiến thoái chi tư giả”.
1) Cơ sở khoa học:
- Định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng
- Định luật mối liên hệ khối lượng và năng lượng
- E =mc2
2) Chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo:
+ Một mặt cho rằng vận tốc không vận động với ý nghĩa thế giới tồn tại như thế nào thì sẽ mãi mãi y nguyên như thế. Nhằm khẳng định va trò sáng thế của chúa, của ý niệm tuyệt đối.
+ Mặt khác cho rằng có sự vận động không vật chất đó là sự vận động của những lực lượng siêu nhiên. Mục đích là để khẳng định sự tồn tại độc lập của những lực lượng siêu nhiên ấy.
3) Kết luận:
+ Vận động không do ai sinh ra và cũng không mất đi, vận động là vĩnh viễn.
+ Nhờ vận động mà các sự vật, hiện tượng có thể chuyển hóa từ dạng tồn tại này sang dạng tồn tại khác.
+ Nhờ vận động, một vật cụ thể mới bộc lộ sự tồn tại riêng biệt của nó.
4) Nguyên nhân vận động:
+ Tự thân vận động (do giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật):
5) Các hình thức vận động :
Dựa vào thành tựu của khoa học tự nhiên và triết học, lần đầu tiên Friedrich Engels (1820 – 1895) đã phân loại thành 5 hình thức vận động cơ bản của vật chất là:
- Vận động cơ học: ở sự di chuyển vị trí của các vật thể..
- Vận động vật lý: Vận động của các phân tử, các hạt cơ bản các quá trình nhiệt điện.
- Vận động hóa học: Của các nguyên tử, quá trình phân giải và hoà hợp của các chất.
- Vận động sinh vật: Sự trao đổi chất của cơ thể và môi trường, chuyển hóa chất trong cơ thể sinh vật...
- Vận động xã hội: Con đường tiến bộ của xã hội.....
Kết luận:
Tuy có sự khác nhau về chất nhưng cách thức vận động của sự liên hệ, tác động qua lại, chuyển hoá lẫn nhau, từ hình thức thấp đến cao.
6) Vận động và đứng im (tương đối):
Thế giới vật chất không chỉ ở trong quá trình vận động mà còn đứng im tương đối có sự phân hoá thế giới vật chất thành các sự vật hiện tượng phong phú và đa dạng
Theo Engels (1820 – 1895): "đứng im tương đối của các vật thể... là điều kiện chủ yếu của sự phân hoá của vật chất". Đó là sự ổn định, là sự bảo toàn tính quy định của các sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, vận động là tuyệt đối, còn đứng im là tương đối, tạm thời, thể hiện ở các điểm sau:
- Vật thể chỉ đứng im trong một quan hệ nhất định.
- Vật thể chỉ đứng im trong một hình thức vận động trong một lúc nào đó, chứ không phải với mọi hình thức vận động trong cùng một lúc.
- Vận động là mọi biến đổi nói chung, nó không bài trừ mà còn bao hàm đứng im.
- Đứng im là biểu hiện của một trạng thái vận động. Đó là vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định tương đối.
VD: Cái bàn trong lớp học là đứng im nhưng là đứng im tương đối vì trong nó vẫn có sự vận động.
Kết luân:
Đứng im là tương đối, vận động là tuyệt đối.
7) Tóm lại:
- Vật chất tồn tại bằng cách vận động, thông qua vận động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Không thể có vật chất mà không có vận động và ngược lại.
- Thế giới vật chất tồn tại khách quan, vĩnh viễn và vô tận, tuy thế giới vật chất đa dạng và phong phú nhưng tất cả đều là vật chất, đều thống nhất ở tính vật chất của nó.

KHÔNG GIAN VÀ THỜI GIAN
Hình thức thể hiện tồn tại của vật chất là không gian và thời gian
1) Định nghĩa:
- Không gian: Là khái niệm dùng để chỉ thuộc tính phổ biến của các vật thể có quãng tính. Cụ thể hơn
- Thời gian: Là khái niệm dùng để phản ánh thuộc tính phổ biến các quá trình vật chất. Như: Độ lâu của sự biến đổi, trình tự xuất hiện và mất đi của các sự vật, các trạng thái khác nhau trong thế giới vật chất….
Lênin nhận xét: “Trong thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động và vật chất đang vận động không thể vận động ở đâu ngoài không gian và thời gian”
2) Các đặc tính:
- Tính khách quan: Vật chất tồn tại khách quan và tồn tại trong không gian và thời gian. Do đó, không gian và thời gian cũng tồn tại khách quan.
+ Không gian, thời gian luôn luôn là không gian, thời gian vật chất. Không thể có không gian, thời gian thuần túy tồn tại đâu đó bên ngoài vật chất.
Newton: cho rằng không gian, thời gian và vận động là những thực thể nào đó ở bên ngoài vật chất và không có liên hệ với nhau. Đó là quan điểm sai lầm.
Phê phán quan điểm của các nhà duy vật siêu hình, Engels viết: “các hình thức cơ bản của mọi tồn tại là không gian và thời gian; tồn tại ngoài thời gian thì cũng hết sức vô lý như tồn tại ngoài không gian” (Karl Marx và Friedrich Engels: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia HN,1994, t.20, tr.78)
- Tính vô tận của không gian và tính vĩnh cửu của thời gian:
+ Nghĩa là không có điểm bắt đầu và không có điểm tận cùng (vi mô và vĩ mô).
VD:
Lênin: “Điện tử cũng vô cùng như nguyên tử”
+ Không có chỗ nào là trung tâm vũ trụ.
+ Thời gian không bắt đầu, không kết thúc, không ngưng đọng
VD: “Khi tôi phát âm từ tương lai, âm đầu tiên đã thuộc về quá khứ”
- Tính tương đối và tuyệt đối:
+ Tính tương đối:
VD: Không gian, thời gian có thể thay đổi…. nói lên sự phụ thuộc không gian, thời gian vào vận động.
+ Tính tuyệt đối
VD: Không thể mất đi dù thay đổi vẫn tồn tại…. nói lên tính khách quan của không gian, thời gian đối với sự tồn tại của vật chất.
Kết luận:
+ Là một thể thống nhất không thời gian.
+ Đó là hai thuộc tính khác nhau nhưng không thể tách rời nhau của vật chất vận động.
+ Một tính chất nào đó của không gian bao giờ cũng liên quan một tính chất của thời gian tương ứng.


TÍNH THỐNG NHẤT VẬT CHẤT CỦA THẾ GIỚI
…………….thiếu: khách quan, vận động, không gian, thời gian, phản ánh.
Kết luận chung (phần vật chất)
- Chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất.
+ Thế giới vật chất tồn tại khách quan, có trước và độc lập với ý thức con người.
- Mọi bộ phận của thế giới đó đều có mối liên hệ vật chất thống nhất với nhau biểu hiện ở chỗ chúng đều là những dạng cụ thể của vật chất.
+ Là những kết cấu vật chất có nguồn gốc vật chất, có quan hệ vật chất và chúng chịu chi phối của các quy luật khách quan chung phổ biến của thế giới.
- Thế giới vật chất tồn tại vĩnh viễn, vô hạn, vô tận, không sinh ra và cũng không mất đi. Trong thế giới đó không có gì khác ngoài những quá trình vật chất đang biến đổi và chuyển hóa lẫn nhau. Là nguyên nhân và kết quả lẫn nhau.

NGUỒN GỐC, BẢN CHẤT Ý THỨC
1) Ý thức là đặc tính
* Những quan điểm sai lầm:
- Linh hồn: bất tử -> ướp xác
Quan điểm của khổng tử:
- Chủ nghĩa duy vật tầm thường:
+ Xuất hiện ở Đức giữa thế kỷ XIX.
+ Thừa nhận vật chất là thực tại duy nhất.
+ Bênh vực học thuyết vô thần
+ Cho rằng óc tiết ra tư tưởng như gan tiết mật.
=> Vật chất qua ý thức, xem ý thức là một dạng vật chất.
+ Lẫn lộn, đơn giản và thô thiển.
- Vật hoạt luận:
+ Cho rằng cảm giác và sinh mệnh đều là thuộc tính sẵn có của tất cả mọi vật trong tự nhiên.
+ Cho rằng bất cứ kết cấu vật chất nào cũng sản sinh ý thức.
* Chủ nghĩa duy vật:
Khẳng định:
+ Ý thức là thuộc tính (attribute) của vật chất nhưng không phải là thuộc tính chung của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc người.
+ Ý thức là toàn bộ những hoạt động tinh thần của con người gồm: lý luận, quan niệm, tình cảm, ý chí… tất cả trên sự suy nghĩ bằng ngôn ngữ hoặc bằng khái niệm.
Bộ óc con ng¬ười hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hoá lâu dài về mặt sinh vật - xã hội và có cấu tạo rất phức tạp, gồm khoảng 14 - 15 tỷ tế bào thần kinh. Các tế bào này tạo nên nhiều mối liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không điều kiện.
+ Tâm lý ý thức và cơ chế sinh lý thần kinh là hai mặt của một quá trình, quá trình sinh lý thần kinh của não người mang nội dung ý thức.
2) Thuộc tính phản ánh của vật chất và sự ra đời của ý thức:
a) Nguồn gốc tự nhiên (natural origin) của ý thức:
Chỉ có con người với bộ óc của mình mới có ý thức theo đúng nghĩa của từ đó. Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc không thôi mà không có sự tác động của thế giới bên ngoài để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì không thể có ý thức.
Phản ánh (reflectinon): Là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở một hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại giữa chúng. Kết quả của sự phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật, tác động và nhận tác động.
Những điều quan trọng là những biến đổi trong vật nhận tác động mang dấu vết thể hiện nội dung vật tác động. Nói cách khác, vật phản ánh mang nội dung thông tin từ vật bị phản ánh. Phản ánh của vật chất cũng phát triển từ thấp đến cao với nhiều hình thức khác nhau như:
+ Phản ánh thụ động -> Phản ánh sinh học
Phản ánh thụ động: là phản ánh trong giới tự nhiên vô sinh, những phản ánh vật lý, hóa học. Những phản ánh này có tính chất thụ động, chưa có sự định hướng, sự lựa chọn.
Phản ánh sinh học: là phản ánh trong giới tự nhiên hữu sinh, sự phản ánh đã phát triển lên ở trình độ cao.
- Phản ánh ở thực vật, động vật bậc thấp, đã có sự chọn lọc trước những tác động của môi trường.
VD: Hoa hướng dương hướng hoa của mình về phía mặt trời để tiếp nhận ánh sáng cho hạt phát triển; cây ở sa mạc khi có bảo cát thì cây tự cuộn mình lại…..
- Phản ánh ở động vật xuất hiện do những tác động từ bên ngoài lên cơ thể động vật và cơ thể phản ứng lại. Hình thức cao nhất trong giới động vật là tâm lý động vật.
VD: Phản xạ không điều kiện, phản xạ có điều kiện….
- Phản ánh ý thức: Gắn liền với quá trình chuyển hoá từ vượn thành người. Bao gồm:
+ Hệ thống tín hiệu 1 (trực tiếp)
+ Hệ thống tín hiệu 2 (gián tiếp – ngôn ngữ)
+ Khi hệ thống tín hiệu 2 hình thành ở con người kết hợp hệ thống tín hiệu 1 nâng trình độ con người lên mức hoàn thiện đó chính là ý thức.
Phản ánh -> phản xạ -> ý thức.
Như vậy, Ý thức có nguốn gốc tự nhiên từ thuộc tính phản ánh của vật chất. Bộ óc người cùng với thế giới khách quan tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.
b) Nguồn gốc xã hội (social origin) của ý thức:
Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội.
Theo Friedrich Engels (1820 – 1895): “Đem so sánh con người với các loài vật, người ta sẽ thấy rõ rằng ngôn ngữ bắt nguồn từ trong lao động và cùng phát triển với lao động, đó là cách giải thích duy nhất đúng về nguồn gốc của ngôn ngữ” (Karl Marx và Friedrich Engels: Toàn tập, NXB. Chính trị quốc gia HN,1994, t.20, tr.645)
Ngôn ngữ là do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức.
Theo Karl Marx (1818 – 1883): “Ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, không có ngôn ngữ, con người không thể có ý thức”
Như vây, Ý thức là hiện tượng có tính chất xã hội do đó không có phương tiện trao đổi xã hội về mặt ngôn ngữ thì ý thức không thể hình thành và phát triển được. Vậy nguồn gốc trực tiếp quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thưc là lao động, là thực tiễn xã hội.
Kết luận:
Ý thức mặc dù có nguồn gốc tự nhiên nhưng mang bản chất xã hội.
3) Bản chất của ý thức
a) Khái niệm:
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người một cách năng động, sáng tạo. Thể hiện:
- Năng lực nhận thức của con người để tác tạo khách quan thành chủ quan.
Marx: “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào đầu óc con người và được cải biến trong đó” (Karl Marx và Friedrich Engels: Toàn tập Nxb, Chính trị quốc gia, HN,1993, t.23, tr.35) cách khác “ý thức không bao giờ là cái gì khác hơn là sự tồn tại của ý thức”
- Sự phản ánh hiện thực của ý thức là phản ánh tích cực, năng động, sáng tạo. Biểu hiện:
+ Chọn lọc, sử lý lưu giữ thông tin và từ đó rút ra tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế.
VD: Huyền thoại, giả thiết, lý thuyết khoa học, tiên tri…..
- Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của ba mặt sau:
+ Thứ nhất: tiếp nhận thông tin nhưng có chọn lọc và định hướng thôn tin cần thiết.
+ Hai là: sáng tạo lại hiện thực của ý thức thành các ý tưởng tinh thần.
+ Ba là: hiện thực hóa tư tưởng thông qua hoạt động thực tiển, tức là chuyển từ tư duy ra hiện thực khách quan.
- Ý thức không phải là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà là một hiện tượng xã hội. Ý thức bắt nguồn từ thực tiễn lịch sử - xã hội, phản ánh những quan hệ xã hội khách quan.
Marx (1818 -1883): “ Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm của xã hội, và vẫn là như vậy chừng nào con người còn tồn tại” (Karl Marx và Friedrich Engels: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, HN,1995, t.3, tr.43)
4) Kết cấu ý thức: gồm 3 bộ phận.
- Tri thức: Là toàn bộ hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh đối tượng được nhận thức dưới dạng ngôn ngữ. thiếu 4x xem vở soạn
- Tình cảm: Là mối quan hệ giữa người với nhau, giữa người với thế giới khách quan.
- Ý chí: Biểu hiện sức mạnh tinh thần của con người nhằm vượt mọi trở lực để đạt được mục đích mong muốn.
5) Sự tác động trở lại của ý thức vào vật chất:
- Tích cực:
+ Trên cơ sở nhận thức đúng quy luật khách quan và hành động phù hợp có ý chí và hoạt động khoa học làm thay đổi quy luật vật chất có lợi hơn cho sự tồn tại của mình.
+ Ý thức có tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
- Tiêu cực:
+ Hành động nhận thức đúng nhưng vì lợi ích cục bộ, ích kỷ mà con người hoạt động bất chấp quy luật dẫn đến hành động xấu.
VD: Phá rừng
+ Nhận thức sai và hành động cục bộ dẫn đến phá hoại nặng nề
VD:
- Nói đến ý thức là nói đến hành động thực tiễn của con người.
Tóm lại: Sức mạnh của ý thức con người không phải ở chỗ tách điều kiện vật chất, thoát ly hiện thực khách quan mà là biết dựa vào điều kiện vật chất sẵn có phản ánh đúng quy luật khách quan, cải tạo hiện thực sáng tạo.
6) Ý nghĩa phương pháp luận:
Khái niệm: Trên nền tảng tri thức đúng đẫn đến khám phá, làm chủ thế giới khách quan.
Có 3 đặc điểm cần lưu ý:
- Thế giới vật chất có những quy luật, thuộc tính vốn có của nó, tồn tại độc lập ý thức, vì vậy trong hoạt động thực tiễn, và nhận thức phải luôn xuất phát từ thực tế khách quan.
- Ý thức có tính độc lập tương đối có thể tác động làm thay đổi vật chất. Vì vậy, trong hoạt động thực tiễn cần phải biết sử dụng hiệu quả các điều kiện vật chất đã có.
- Cần tránh hai khuynh hướng sai lầm thường gặp:
+ Tuyệt đối hóa vai trò của vật chất. Đó là thái độ trông chờ, ỷ lại vào điều kiện vật chất.
+ Tuyệt đối hóa vai trò của ý thức. Đó là căn bệnh chủ quan duy ý chí.
5/ Phan tích mối quan hệ giữa vật chất và ý thức . vai trò tác dụng của ý thức
- Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức.Vật chất là cái có trước,nó sinh ra và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất : bộ não ngưòi - cơ quan phản ánh thế giơí xung quanh,sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não ngưòi,tạo thành nguồn gốc tự nhiên .
Lao động và ngôn ngữ(tiếng nói,chữ viết )trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc tự nhiên quyết định sự hình thành,tồn tại và phát triển của ý thức .
Mặt khác,ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.Vật chất là đối tượng,khách thể của ý thức,nó quy định nội dung,hình thức,khả năng và quá trình vận động của ý thức .
-Tác động trở lại của ý thức
Ý thức do vật chất sinh ra và quy định,nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó.Hơn nữa,sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần,phản ánh sáng tạo và chủ động chứ không thụ động,máy móc,nguyên si thế giới vật chất,vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người .
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan,con người đề ra mục tiêu,phương hướng,xác định phương pháp,dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy.Vì vậy,ý thức tác động đến vật chất theo hai hướng chủ yếu :Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất,hoàn cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.Ngược lại,nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người không phù hợp với quy luật khách quan,do đó:sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
Tuy vậy,sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó không thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được.Và suy cho cùng,dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất .
Biểu hiện ở mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội,trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội,đồng thời ý thức xã hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội .
Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý thức còn là cơ sở để nghiên cứu,xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,khách thể và chủ thể,vấn đề chân lý ...
Ý nghĩa phương pháp luận .
Do vật chất là nguồn gốc và là cái quyết định đối với ý thức, cho nên để nhận thức cái đúng đắn sự vật, hiện tượng, trước hết phải xem xét nguyên nhân vật chất, tồn tại xã hội_ để giải quyết tận gốc vấn đề chứ không phải tìm nguồn gốc, nguyên nhân từ những nguyên nhân tinh thần nào."tính khách quan của sự xem xét" chính là ở chỗ đó .
Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên trong nhận thức phải có tính toàn diện, phải xem xét đến vai trò của nhân tố tinh thần.
Trong hoạt động thực tiễn, phải xuất phát từ những điều kiện khách quan và giải quyết những nhiệm vụ của thực tiễn đặt ra trên cơ sở tôn trọng sự thật. Đồng thời cũng phải nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần,tạo thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao.
Không chỉ có vậy, việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ trên khắc phục thái độ tiêu cực thụ động, chờ đợi, bó tay trước hoàn cảnh hoặc chủ quan, duy ý chí do tách rời và thổi từng vai trò của từng yếu tố vật chất hoặc ý thức.